Nam-mô Ðại-bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát Ma-ha-tát



Đại Bi Chú Cú Giải

và

Xuất Tượng


Tác giả: Hòa thượng Tuyên Hóa

Bản dịch của THÍCH NHUẬN CHÂU


Tác giả: Hòa thượng Thiền Tâm 



Thủ nhãn thông thiên đại tổng trì

Chấn động tam thiên thế giới thì

Hữu duyên vô duyên hàm nhiếp hóa

Từ bi phổ độ Diêm phù đề.


Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi. Vì kinh văn thần chú này thuộc vào hệ mật ngôn chân ngữ. Nay để giảng giải về thần chú này, trước tiên tôi xin đưa ra một bài kệ để thuyết minh cho ý nghĩa của thần chú:

 

Đại bi đại chú thông thiên địa
Nhất bách nhất thiên thập vương hoan
Đại từ đại bi năng khử bệnh
Nghiệt kính nhất chiếu biến cao huyền.

 

Nghĩa là:

 

Thần chú Đại bi có công năng thông cả thiên đường, thấu cả địa phủ. Người nào thường trì niệm chú này mỗi ngày 108 biến, niệm ngàn ngày như thế thì có thể khiến Thập điện Minh vương hoan hỷ.

Năng lực Từ và Bi của thần chú có thể chữa lành tất cả mọi tật bệnh và làm cho đài gương chiếu tội sáng ngời ngời.

 

Đại bi đại chú thông thiên địa


Khi Quý vị niệm thần chú này thì trời đất đều chấn động, cả pháp giới chuyển rung. Trên thông cả cõi trời, dưới thấu khắp cả các cõi giới địa ngục. Khắp cả mọi pháp giới trời người đều cảm thông và tán dương công đức.

 

Nhất bách nhất thiên thập vương hoan


Nếu Quý vị niệm thần chú này mỗi ngày 108 biến, niệm ngàn ngày như vậy, tức là vào khoảng 3 năm. Niệm thần chú này liên tục trong 3 năm không gián đoạn, không bỏ sót một ngày, bất luận Quý vị có bận rộn như thế nào cũng không quên niệm, thì có thể khiến cho mười vị vua điều hành công việc ở chốn địa phủ cũng phải hoan hỷ. Có nghĩa là từ vua Diêm La cai quản điện thứ 10, cùng tất cả các chung sinh đang bị tội báo ở trong 10 địa ngục ấy đều được vui mừng.

 

Đại từ đại bi năng khử bệnh


Năng lực Từ và Bi của thần chú này có thể chữa lành tất cả mọi bệnh tật. Vì sao gọi là chú Đại Bi? Là vì: “Bi năng bạt khổ”. Nghĩa là Bi có công năng làm cho mọi khổ nạn của chúng sinh được tiêu trừ. Còn “Từ năng dữ lạc”. Lòng Từ thường đem lại niềm vui cho chúng sinh. Vì thần chú này khả năng bớt khổ ban vui cho mọi chúng sinh nên gọi là Chú Đại Bi. Chủ yếu nhất là công năng chữa lành mọi bệnh tật. Bất luận Quý vị bị bệnh gì, nếu Quý vị trì niệm Chú Đại Bi, thì mọi bệnh khổ đều được tiêu trừ.

Có người sẽ thắc mắc: “Tôi đã niệm Chú Đại Bi rồi, tại sao không lành bệnh?”

Quý vị chưa lành bệnh là vì Quý vị chưa vận hết lòng thành trong lúc trì niệm. Với lòng chí thành, chắc chắn Quý vị sẽ có được sự cảm ứng khi niệm chú.

 

Nghiệt kính nhất chiếu biến cao huyền


Khi Quý vị trì niệm mỗi ngày 108 biến chú Đại Bi, niệm trong 1000 ngày như thế thì Thập điện Minh Vương vui mừng và tất cả mọi bệnh tật đều được tiêu trừ. Trong suốt 1000 ngày, tức 3 năm này, Quý vị đã thành tựu được khá nhiều công đức rồi. Bởi vì trong 3 năm này, mỗi ngày Quý vị đều gia tâm trì tụng thần chú nên không có điều kiện để tạo tác nghiệp nhân. Quý vị không uống rượu, không ăn thịt, không ăn ngũ vị tân.

Trong địa ngục có một đài gương báo tội gọi là “nghiệt kính đài”, nếu Quý vị gây một nghiệp ác nào thì nghiệp ấy sẽ hiện rõ trong đài gương kia. Cũng giống như hình ảnh đang hiện ra trên màn ảnh xi nê vậy. Ví như một người, đời này gây tội sát nhân, thì trong gương báo tội sẽ hiện ra cảnh người ấy đang giết người. Nếu người ấy gây nghiệp trộm cắp thì trong gương sẽ hiện hình người ấy đang đi ăn trộm. Nếu người ấy gây nghiệp đốt phá nhà cửa người khác thì trong gương sẽ hiện ra rõ ràng hành động đốt nhà ấy.

Còn nếu Quý vị không gây tạo ác nghiệp gì cả thì sao? Thì chẳng có gì hiện ra trong kính đó cả. Vậy nên, nếu Quý vị trì tụng thần Chú Đại Bi trong 3 năm thì khi gương nghiệp soi chiếu đến, tội báo của Quý vị sẽ được tẩy sạch. Nơi địa ngục ấy sẽ treo lên một tấm bảng ghi rằng: “Người này đã từng trì tụng Chú Đại Bi, tội báo của người này đều đã được hóa giải toàn bộ.”

Tất cả các vị quỷ thần trong địa ngục đều cúi đầu lễ bái sùng kính người trì chú này như lễ bái cung kính chư Phật trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai vậy. Đồng thời các vị quỷ thần ấy sẽ hộ trì người trì chú cũng như họ thường hầu cận chư Phật vậy, và các vị quỷ thần đều thông báo cho nhau biết là không nên quấy nhiễu người trì chú này. Thần lực của chú Đại Bi thật là không thể nghĩ bàn.




1. Nam-mô hắc ra đát na đa ra dạ da


Hàng ngày chúng ta vẫn thường tụng Nam mô A-di-đà Phật. Nam mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật. Nhưng Quý vị có biết Nam-mô có nghĩa là gì không? Chắc là rất ít người biết được. Cách đây vài năm, có lần tôi đã đặt vấn đề này trong một pháp hội nhưng chưa một người nào có được câu trả lời hoàn chỉnh cả.

Nam-mô, phiên âm chữ Na-ma từ tiếng Phạn. Trung Hoa dịch là “Quy y”; cũng dịch là “Quy mạng kính đầu”. Có nghĩa là: “Con xin đem toàn thể sinh mạng của con về nương tựa vào chư Phật”. Cái bản ngã của chính mình không còn nữa. Mà con xin dâng trọn vẹn thân mạng mình lên chư Phật. Nếu chư Phật cho con sống thì con sống; bảo con chết thì con chết. Con hoàn toàn tin vào chư Phật. Đó gọi là “Quy mạng”.

Còn “Kính đầu” có nghĩa là hết sức cung kính và nương tựa vào đức Phật. Đó là ý nghĩa của Nam-mô.

Còn “Quy y” có nghĩa là đem hết thân và tâm của mình, đem hết cả mạng sống của mình trở về nương tựa vào đức Phật.

Nói tổng quát. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da có nghĩa là “Xin quy y Tam Bảo vô biên vô tận trong khắp mười phương”.

 

Đó chính là bản thể của Bồ-tát Quán Thế Âm. Quý vị nên khởi tâm Từ Bi mà trì niệm. Mặc dù đó là bản thể của Bồ-tát Quán Thế Âm, nhưng cũng có nghĩa là quy y với toàn thể chư Phật trong mười phương, suốt cả ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Khi Quý vị trì niệm thần chú này. Không những chỉ nhắc nhở mình quy y với Tam Bảo thường trụ trong khắp mười phương vô biên vô tận mà còn khiến cho tất cả mọi loài hữu tình khi nghe được thần chú này cũng đều quay về quy y, kính lễ mười phương ba đời thường trụ Tam Bảo.

Quý vị có biết Tam bảo là gì không? Đó là Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo. Quý vị nên biết rằng, trên thế gian này Phật bảo là cao quý nhất. Cũng thế, Pháp bảo và Tăng bảo là điều cao thượng và quý báu nhất. Không những cao quý ở thế gian mà còn cao quý đối với những cảnh giới xuất thế gian, cho đến đối với cõi trời phi tưởng phi phi tưởng nữa. Không còn có gì cao quý hơn Tam bảo trong Phật pháp nữa. Trong mười pháp giới thì cảnh giới Phật là cao nhất. Thế nên chúng ta cần phải cung kính quy ngưỡng và tín thọ nơi Tam bảo cao quý, phát khởi tín tâm kiên cố và thâm sâu, không một mảy may nghi ngờ.

Có người sẽ hỏi: Quy y Tam bảo sẽ có lợi ích gì? Tối thiểu nhất là khi Quý vị quy y Phật rồi thì đời đời kiếp kiếp không còn đọa vào địa ngục nữa; khi Quý vị quy y Pháp rồi thì đời đời kiếp kiếp không còn đọa vào hàng ngạ quỷ (quỷ đói) nữa; khi Quý vị quy y Tăng rồi thì Quý vị không còn bị đọa làm loài súc sinh nữa. Đây là những đạo lý căn bản của việc quy y Tam bảo.

Nhưng khi đã quy y rồi, Quý vị phải tự nguyện và tinh tấn thực hành các việc lành, tương ứng với lời dạy của đức Phật thì mới xứng đáng gọi là quy y. Nếu Quý vị vẫn còn giữ nguyên các tập khí ngày trước như sát sanh, trộm cắp, tà hạnh dâm dục, nói dối, nghiện ngập và làm mọi điều mình thích để thỏa mãn ngũ dục thì Quý vị không thể nào tránh khỏi đọa vào 3 đường ác (ngạ quỷ, địa ngục, súc sinh). Bở vì trong Phật pháp không có sự nhân nhượng. Quý vị không thể nói: “Tôi đã quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng rồi, nên tôi sẽ không bao giờ bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh nữa. Vậy nên tôi có quyền làm điều gì tôi muốn…”

Quý vị phải thay đổi, chuyển hóa mọi tập khí xấu của mình và tích cực thực hành những việc thiện, dứt khoát không bao giờ làm những việc ác nữa. Nếu Quý vị còn tiếp tục làm những việc xấu ác, thì Quý vị sẽ bị đọa ngay vào địa ngục.

Đạo Phật không giống như ngoại đạo. Họ tuyên bố rằng: “Quan trọng nhất là niềm tin. Nếu có niềm tin thì dù có làm việc ác, cũng có thể vào được thiên đường. Còn ngược lại, nếu ai thiếu lòng tin, dù có gắng sức làm việc phúc đức, thì cũng sẽ rơi vào hỏa ngục”.

Nếu Quý vị tin vào đức Phật mà vẫn tạo các nghiệp ác thì nhất định Quý vị sẽ bị đọa vào địa ngục. Dù Quý vị không tin vào đức Phật, mà vẫn gắng sức làm việc phước thiện thì Quý vị vẫn được lên thiên đàng. Phật pháp không bao giờ mê hoặc con người bằng cách nói: “Nếu Quý vị tin vào đức Phật, thì mọi điều sẽ được như ý.” Ngược lại, nếu Quý vị tin vào đức Phật mà vẫn không chịu từ bỏ các việc ác thì Quý vị vẫn phải bị đọa vào địa ngục.

“Được rồi”. Quý vị lại thắc mắc: “Nếu đã tin Phật rồi mà cũng đọa vào địa ngục như không tin, thì tại sao phải quy y Tam bảo?”

Chân chính quy y Tam bảo có nghĩa là phải từ bỏ việc ác, quay về đường thiện, sửa đổi mọi lỗi lầm. Như một người được khai sinh lại với tên mới, từ đây chỉ làm thuần túy những việc lành. Không làm những việc xấu ác nữa. Như thế mới đạt được lợi ích thiết thực. Chính vì vậy mà câu chú: Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da có nghĩa là: “Quy y Tam bảo vô cùng vô tận trong khắp mười phương”.

Khi Quý vị trì niệm chú này, cũng có thể giúp tiêu trừ được những ách nạn cho Quý vị. Lúc gặp tai chướng, Quý vị hay thường trì niệm: Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da thì tai chướng ấy liền được tiêu trừ. Tai nạn lớn sẽ biến thành tai nạn nhỏ, và nếu gặp tai nạn nhỏ thì cũng sẽ được tiêu sạch. Chú này được gọi là “Tiêu tai pháp”, là một trong năm bộ chú hộ ma.

Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da cũng còn được gọi là “Tăng ích pháp”. Nghĩa là từ trước đến nay Quý vị đã từng gieo trồng nhiều thiện căn, và vẫn thường trì tụng chú này, thì thiện căn của Quý vị sẽ tăng trưởng thêm gấp nhiều lần, lợi lạc không kể xiết. Nên chú này được gọi là “Tăng ích pháp”.

Quý vị có thể niệm toàn bộ chú Đại Bi, hoặc chỉ cần niệm câu chú đầu tiên này thôi: Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da là “Thành tựu pháp”, bất luận Quý vị muốn điều gì, thì sở nguyện sở cầu của Quý vị đều được thành tựu như ý muốn. Nếu Quý vị không có con trai mà muốn cầu sinh con trai, hay niệm Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da sẽ sinh được con trai. Nhưng Quý vị phải trì niệm với tâm trí thành, không phải chỉ niệm một hai ngày rồi thôi, mà phải niệm liên tục ít nhất là trong ba năm. Nếu Quý vị không có được bạn tốt, mà muốn gặp được một người, hay niệm Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da thì liền gặp được ngay bạn lành. Nếu Quý vị trì niệm được toàn thể bài chú Đại Bi thì quá tốt, nếu không chỉ cần niệm câu đầu tiên Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da, cũng sẽ thành tựu những công đức không thể nghĩ bàn.

Câu chú này cũng còn được gọi là “Hàng phục pháp”. Năng lực của câu chú đó có thể hàng phục thiên ma, chế phục ngoại đạo khi nó nghe đến câu chú này.

Tuy vậy, câu chú này không phải là “Câu triệu pháp”. Khi Quý vị trì niệm một câu chú thuộc trong “Câu triệu pháp” thì tất cả các loại yêu ma quỷ quái khắp nơi đều đến trình diện và có thể bắt giữ, hoặc sai khiến được chúng.

Vậy nên, câu chú Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da này có công năng rất mạnh, không thể suy lường được. Nếu nói chi tiết, thì không thể nào cùng tận được.

Tóm lại, trong câu Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da, thì Nam mô có nghĩa là “quy mạng kính đầu”. Hắc ra đát na là “bảo”. Đa ra dạ có nghĩa là “Tam”. Da nghĩa là “Lễ”.

Nghĩa toàn câu là: “Xin đem hết thân, tâm, tính mạng của mình quy y và kính lễ Tam Bảo vô tận vô biên trong khắp cả mười phương, suốt cả ba đời”. Chúng ta phải cúi đầu đảnh lễ thường trụ Tam bảo.

Vì sao gọi là vô tận vô biên? Vì chư Phật trong thời quá khứ là vô cùng vô tận. Chư Phật trong thời hiện tại là vô cùng vô tận. Chư Phật trong thời vị lai là vô cùng vô tận. Cho nên Tam bảo là vô biên vô tận.



GIỚI SÁT SANH

 

Nếu Phật-Tử, hoặc tự mình giết, bảo người giết, phương tiện giết, khen tặng sự giết, thấy giết mà tùy-hỉ, nhẫn đến dùng bùa chú để giết : Nhân giết, duyên giết, cách-thức giết, nghiệp giết.


Phàm tất cả loài hữu-tình có mạng sống đều không được cố ý giết. Là Phật-Tử, lẽ ra phải luôn luôn có lòng từ-bi, lòng hiếu-thuận, lập thế cứu giúp tất cả chúng-sanh, mà trái lại tự phóng tâm nỡ lòng sát-sanh, Phật-Tử này phạm “Bồ-Tát Ba-La-Di tội”.


PHẠM VÕNG KINH



PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI

 

Thắng Nhiệt Bà La Môn vì Thiện Tài mà nói kệ rằng :

 

Nếu có chư Bồ Tát

Thuận theo thiện tri thức

Tất cả không nghi sợ

An trụ tâm chẳng động

Nên biết người như vậy

Tất được lợi quảng đại

Ngồi dưới cây Bồ đề

Thành bậc Vô Thượng Giác.

 

Bấy giờ Thiện Tài đồng tử liền leo lên núi đao tự nhảy vào đống lửa. Khi rơi xuống giữa chừng. Thiện Tài liền chứng được Bồ Tát thiện trụ tam muội. Vừa chạm ngọn lửa, Thiện Tài lại chứng được Bồ Tát tịch tịnh lạc thần thông tam muội.

Thiện Tài thưa :

Bạch đức Thánh ! Núi đao và đống lửa này, thân tôi vừa chạm đến thời được an ổn khoái lạc.

Thắng Nhiệt Bà La Môn nói :

Này thiện nam tử ! Ta chỉ được “MÔN BỒ TÁT VÔ TẬN LUÂN GIẢI THOÁT”.

 

ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

HOA NGHIÊM KINH


Bổn-thân ngài Quán-Thế-Âm Bồ-tát.

 

Đây là Bản-thân của ngài Quán-Thế-Âm Bồ-Tát. (Khi tụng phải dụng Tâm chớ cao Tiếng). Nam-mô hắc ra đát na đa ra dạ da, Quy mạng lễ Tam-Bảo.


Chú này được gọi là Pháp “Tiêu tai, Tăng ích, Thành tựu, Hàng phục"Tuy vậy, câu Chú này không phải là Pháp “Câu triệu”

 

Từ quán Bi quán Hỷ Xả quán

Phổ độ chúng sanh hóa đại thiên

Hữu duyên Vô duyên đồng nhiếp thọ

Ly khổ Đắc lạc phản bổn nguyên.



2. Nam-mô a rị da


Nam-mô như đã giảng ở trên, nghĩa là “đem hết thân tâm, tánh mạng quy y và kính lễ, học tập chư Phật và chư Bồ-tát”.

A rị có nghĩa là “Thánh giả”. Có nghĩa là người xa lìa tất cả các ác pháp. Nên Nam-mô A rị da có nghĩa là kính lễ các bậc Thánh giả, người đã xa lìa tất cả các pháp bất thiện.


 

Bổn-thân ngài Như-Ý-Luân Bồ-Tát.

 

Đây là Bản-thân của ngài Như-Ý-Luân Bồ-Tát. (Khi tụng phải giữ Tâm Cung Kính). Nam-mô a rị da, Quy mạng lễ Thánh-giả.

 

Thân Khẩu Ý luân đại tổng trì

Vạn đóa Liên hoa chánh khai thì

Bạch Thanh Hồng Tử quang biến chiếu

Hữu duyên Phật tử phó thánh tịch.



3. Bà lô yết đế thước bác ra da


Bà lô yết đế có nghĩa là “Quán” trong danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát. Cũng được dịch là “quang” từ danh hiệu Vairocana (Tỳ-lô-giá-na) nghĩa là Quang Minh Biến Chiếu-hào quang chiếu khắp mọi nơi. Còn được dịch là: “Sở quán sát” nghĩa là cảnh giới được quán chiếu, được quán sát đến.

Thước bác ra da có nghĩa là “Tự-Tại”.

Ý nghĩa toàn câu là quán chiếu quán sát một cách rộng khắp và tự tại. Đó chính là ý nghĩa của danh hiệu Bồ-tát Quán-Tự-Tại, Bồ-tát Quán Thế Âm. Có nghĩa là quan sát, lắng nghe âm thanh ở cõi thế gian để cứu độ một cách tự tại.


Bổn-thân ngài Quán-Thế-Âm Bồ-tát trì Bát.

 

Đây là Bản-thân của ngài Quán-Thế-Âm Bồ-tát cầm Bát.(Nếu muốn cầu Xá-lợi phải tưởng hình Bát). Bà lô yết đế thước bác ra da, Quán-Tự-Tại.

 

Trì bát Quán-âm cứu thế gian

Ứng bệnh dữ dược nhuận tam thiên

Bái lễ kiền thành hộ cảm triệu

Nhất thiết sở cầu mãn tâm nguyện.



4. Bồ-đề tát đỏa bà da


Bồ-tát  (Giác-độ)


Mọi người đều biết Bồ-đề xuất phát từ tiếng Phạn là Bodhi. Có nghĩa là "Giác".

Tát đỏa có nghĩa là “Độ” là vượt qua (bể khổ) cũng như đưa người khác vượt qua (bể khổ) đến bờ giải thoát.

Bồ-đề tát đỏa bà da có nghĩa là một vị Bồ-tát đã tự giác ngộ giải thoát và giúp cho mọi chúng sinh được giác ngộ giải thoát như mình.

Bà da có nghĩa là “Đảnh lễ”.

Da có nghĩa là "Khấu đầu đảnh lễ". Cúi đầu đảnh lễ ai? Đảnh lễ các vị Bồ-tát đã tự giác ngộ giải thoát cho chính mình rồi, còn giúp cho người khác được giác ngộ giải thoát.


Câu thần chú này là muốn nhắc đến Bồ-tát Bất Không Quyến Sách áp đại binh. Nghĩa là khi Quý vị tụng câu thần chú này thì Bồ-tát Bất Không Quyến Sách đem binh tướng của cõi trời đến để hộ trì cho Quý vị.


Ngài Bất-Không Quyến-Sách Bồ-tát.

 

Đây là Bất-Không Quyến-Sách Bồ-tát áp lãnh đại binh. Bồ-đề tát đỏa bà da, Bồ-tát (Giác-độ).


Quyến-sách diệu dụng bất tư nghị

Bồ tát trì thử độ quần mê

Tụng chú tác quán Tam Ma Địa

Tức thân thành Phật vị túc kỳ.



 

5. Ma ha tát đỏa bà da


Ma ha có 3 nghĩa: Đại: lớn; Đa: nhiều; và Thắng: hoàn hảo.

Ma-ha với nghĩa là Đại: tức chỉ cho người phát tâm bồ đề rộng lớn.

Ma-ha với nghĩa là Đa: tức chỉ cho số lượng. Có rất nhiều người phát tâm bồ đề.

Ma-ha với nghĩa là Thắng: tức nói đến những người đã phát tâm bồ đề rộng lớn đều đạt đến chỗ thành tựu viên mãn, được nhiều lợi lạc rất thù thắng.

Tát đỏa nghĩa của chữ Tát-đỏa trong câu chú này không giống như nghĩa trong câu trên. Trong câu chú trên, Tát-đỏa có nghĩa là “độ”-vượt qua bờ bên kia. Có nghĩa là giải thoát. Còn trong câu chú này. Tát-đỏa có nghĩa là “Dõng mãnh giả” là người can đảm, không sợ hãi. Cũng có nghĩa là “Tinh tấn giả”, là người tu hành rất siêng năng.

Bà da Hán dịch là “Hướng tha đảnh lễ” nghĩa là: “Con xin đê đầu đảnh lễ các vị đại Bồ-tát, là những người rất dõng mãnh, rất tinh tấn, không bao giờ sợ hãi, và nguyện phát tâm bồ đề trước chư vị Bồ-tát này.”

Các vị đại Bồ-tát đã tự giác ngộ, giải thoát cho chính mình rồi còn phát nguyện giúp cho vô số chúng sanh khác được giác ngộ và giải thoát như mình.




Ngài Chủng-Tử Bồ-tát tự tụng chú.

 

Đây là Bản-thân của Chủng-Tử Bồ-tát tự tụng thần chú. Ma ha tát đỏa bà da, Ma-Ha-Tát (Đại-Dõng mãnh giả).

 

Giác chư hữu tình Chủng thánh nhân

Đạo chứng vô vi khế chân tâm

Tự tha kiêm lợi công thành tựu

Đồng nhập Bát-nhã giải thoát môn.


 

6. Ma ha ca lô ni ca da


Ma ha có 3 nghĩa: lớn, nhiều và thù thắng như trên đã giảng.

Ca lô Hán dịch là “Bi”.

Ni ca nghĩa là “Tâm”.

Hợp lại, Ma ha ca lô ni ca có nghĩa là “Tâm đại bi”.

Da có nghĩa là đảnh lễ, như đã giảng ở trên. Toàn câu chú Ma ha ca lô ni ca da có nghĩa là: “Cúi đầu đảnh lễ thần chú Đại bi tâm Đà-ra-ni.”


Bổn-thân ngài Mã-Minh Bồ-tát.

 

Đây là bản-thân của ngài Mã-Minh Bồ-tát tay cầm Bạt-Chiết-La. Bạt-chiết-la tiếng Phạn (Vajra), dịch là Kim-cang-xử, đây cũng là một loại chày Kim-cang. Ma ha ca lô ni ca da, Bậc đủ “Tâm Đại-bi”.

 

Mã-minh Đại-sĩ hóa Ta bà

Bạt khổ dữ lạc dũ trầm kha

Khởi tử hồi sanh thi cam lộ

Bạt-chiết-la thủ đãng yêu ma.



7. Án!


Án! nghĩa là “Bổn mẫu”, là “Chú mẫu” mẹ của tất cả mọi thần chú; cũng chính là “Phật mẫu” mẹ của tất cả chư Phật.

Mẹ của chư Phật có nghĩa là mẹ của nguồn tâm trong mọi loài chúng sinh, vì nguồn tâm của chúng sinh vốn có sẵn mọi trí huệ, thường xuất sinh các pháp lành, nên gọi là “Bổn mẫu”.

Thông qua năng lực của thần chú mà mười pháp muôn được hiển bày.

1. Pháp môn thứ nhất là “Tự”: là đầu nguồn, làm xuất sinh mọi chủng tự.

2. Thứ hai là “Cú”. Trong kinh văn hoặc trong thần chú, “Cú” có nghĩa là một câu.

3. Thứ ba là “Quán”: là quán chiếu, quán sát, vận dụng năng lực quán chiếu mà hành trì.

4. Thứ tư là “Trí”: là trí huệ, dùng thanh gươm trí huệ để cắt đứt tất cả phiền não. Trí huệ tức là pháp môn lưu xuất từ Bát Nhã Ba La Mật, đó là trí huệ viên mãn nhất. Còn “Quán” là lưu xuất từ pháp môn Thiền định Ba La Mật.

5. Thứ năm là “Hnh”: nghĩa là tu tập, nương theo giáo pháp mà hành trì.

6. Thứ sáu là “Nguyện”: nghĩa là cần phải phát nguyện, nương theo giáo pháp chân chính mà tu hành.

7. Thứ bảy là “Giáo”: nghĩa là y cứ theo giáo pháp chân chính mà tu hành. 

Nếu Quý vị không nương theo lời dạy của đức Phật mà tu hành, thì dù Quý vị có tu hành đến nhiều kiếp như số cát sông Hằng đi nữa thì vẫn không có kết quả gì cả. Cũng như thể nấu cát mà mong thành cơm vậy.

Tuy nhiên, để có thể tu tập xứng hợp với giáo lý chân chính của đức Phật thì trước hết, Quý vị phải thông hiểu về giáo pháp đó một cách tường tận.

8. Thứ tám là “Lý”: nghĩa là đạo lý. Nếu Quý vị có thể nhập được vào Phật pháp vi diệu thì mới có được sự hiểu biết thông đạt về giáo pháp ấy. Nếu Quý vị không khế hội được diệu pháp này, thì Quý vị chỉ là người tu tập trong sự mù quáng. Dù Quý vị có tu hành bao lâu đi nữa, cũng không đạt được sự thành tựu.

9. Thứ chín là “Nhân”: Trong đời này Quý vị phải gieo trồng những nhân thù thắng, nhân tốt lành, nhân thanh tịnh, thì quá khứ Quý vị sẽ gặt được quả thù thắng, quả vi diệu và quả thanh tịnh.

10. Thứ mười là “Quả”: Quả tương ứng sẽ đạt được sau khi đã gieo trồng nhân. Đó là diệu quả, quả vị giác ngộ tối thượng.

Như vậy từ chữ Án!, xuất sinh ra mười pháp môn vi diệu. Nên khi Quý vị trì niệm thần Chú Đại Bi, niệm đến chữ Án! thì tất cả các loài quỷ thần đều chắp tay vô cùng cung kính, không dám tỏ ra khinh suất hoặc lơ là khi nghe hành giả trì tụng thần Chú Đại Bi. Chữ Án! có một năng lực mạnh mẽ mà đến nỗi khiến cho các loài ác quỷ, ác thần đều phải cung kính chấp trì. Công năng của thần chú thật to lớn, thần lực thật không thể nghĩ bàn.


 

Các vị Quỷ-thần chắp tay nghe tụng chú.


Chữ Án! nầy là chư Quỷ-thần đều chắp tay nghe tụng chú. Án! Đấng Bổn-Mẫu. Thông qua năng lực của thần chú mà mười Pháp muôn Tự, Cú, Quán, Trí, Hạnh, Nguyện, Giáo, Lý, Nhân, Quả, được hiển bày.

 

Vô-thỉ-vô-chung vô cổ kim

Hư không pháp giới nhất khẩu thôn

Tự tánh tịch nhiên phi nội ngoại

Như thị như thị như thị Nhân.

 


8. Tát bàn ra phạt duệ


Tát bàn ra, Hán dịch là “Tự-Tại”. Nghĩa là khi Quý vị trì tụng thần chú này, thì Tứ đại thiên vương đều đến làm Hộ pháp cho Quý vị.

Phạt duệ, Hán dịch là Thế tôn, cũng dịch là Thánh-Tôn (Phật).

Nguyên câu chú này có nghĩa là Tự tại Thế tôn. Tự tại Thánh tôn, tức là Đức Phật tự tại, ý là xưng tán Phật bảo.


 

Bổn-thân Tứ-thiên-vương.

 

Đây là bản-thân của Tứ-thiên-vương dùng oai lực hàng ma. Tát bàn ra phạt duệ, Tự-Tại Thánh-Tôn (Phật).

 

Hộ thế Tứ-vương nhật dạ mang

Thưởng thiện phạt ác chúng ma hàng

Bồ tát hóa hiện phục quần quái

Long bàn Hổ ngọa lễ Pháp hoàng.




9. Số đát na đát tỏa


Chữ Số có hai âm là Số và Sổ. Người ta thường niệm là “Số”.

Số Đát Na có nghĩa là “pháp” (Dharma). Pháp gì? Pháp này còn gọi là “Diệu thắng pháp”. Cũng gọi là “Cao thượng thắng sinh”. Có nghĩa là không có gì vượt trội hơn pháp này nữa. Thắng sinh có nghĩa là từ pháp này xuất sinh ra năng lực rất thù thắng.

Còn một cách dịch khác của chữ Số là “Diệu sinh” hoặc “Thắng thân”. Diệu sinh tức là vượt lên trên mọi sự vi diệu. Thắng thân nghĩa là thể của pháp ấy rất thù thắng.

Còn có một cách dịch khác nữa của chữ Số, là “Tối thượng thừa địa”. Nghĩa là cảnh giới của hành giả sẽ trải qua sau khi chứng được Thập địa của hàng Bồ-tát.

Đát na là biểu tượng của Pháp bảo.

Đát tỏa là biểu tượng cho Tăng bảo.

Cho nên toàn thể câu chú Án!, tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa là biểu tượng cho Tam bảo. Có nghĩa là chúng ta phải nên ngưỡng nguyện đến sự gia hộ của Tam bảo. Nên khi trì niệm đến câu thần chú này, có nghĩa là thỉnh cầu, ngưỡng nguyện đến lực gia trì của Tam bảo.

Đát tỏa còn có nghĩa là dùng giáo pháp để răn dạy các loài quỷ thần và dùng thần chú để triệu tập quỷ thần đến mà dạy bảo chúng theo tinh thần chánh pháp.



Quỷ-thần của Tứ-đại-thiên-vương.

Đây là danh dự bộ lạc của Quỷ-thần thuộc Tứ-thiên-vương. Số đát na đát tỏa, Chánh-giác thắng mầu (Pháp).

 

Thiên-binh Thiên-tướng mãnh vô địch

Thiên ma lạc đảm bất túc kỳ

Cải quá thiên thiện bần giả phú

Đắc sanh Cực lạc chúng khổ ly.


 

10. Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da


Xưa nay dường như Quý vị luôn luôn Nam mô với một người nào khác chứ chưa bao giờ Nam mô với chính mình. Người tu hành không cần phải đi Nam mô một khách thể nào khác mà phải Nam mô ngay với chính mình.

Nam-mô có nghĩa là tôi, chính tôi quay trở về quy y với Tam bảo vô cùng vô tận khắp mười phương.

Nam mô còn có nghĩa là đem tự ngã của chính mình thể nhập trọn vẹn vào cả pháp giới khắp cả mười phương. Tức là thể nhập vào Tam bảo vô cùng vô tận khắp cả mười phương.

Tất kiết lật có nghĩa là “hoàn toàn”. Tức là đem hết toàn tâm, toàn ý để quy y và đảnh lễ Tam bảo.

Đỏa y mông có nghĩa là “Ngã”. Đó chính là cái Ngã của Vô Ngã. Nên Quý vị phải đem toàn tâm toàn ý đảnh lễ bản ngã của chính mình, nhưng đảnh lễ cái ngã của vô ngã. Như thế có nghĩa là không có mình hay sao? Ví như khi có người đánh Quý vị, Quý vị không cảm thấy đau; nếu họ mắng chửi, Quý vị không thấy khó chịu; nếu họ nhục mạ, Quý vị thấy như thể không có việc gì xảy ra. Quý vị không nhất thiết cần phải nhẫn nhục, vì nếu dùng phép nhẫn nhục, là Quý vị đã rơi vào “đệ nhị nghĩa” rồi. Trong trường hợp này, Quý vị không nhất thiết cần phải “nhẫn”, vì vốn không có một bản ngã để dùng pháp nhân và không có một bản ngã để cho pháp nhẫn ấy tác động tới. Có nghĩa là Quý vị phải hành pháp nhẫn trong “vô nhẫn”.

Đó gọi là Ngã của vô ngã vậy.

A rị da ở trên đã giảng qua, có nghĩa là “Thánh giả”.  đây tức là phải hết lòng đảnh lễ “cái ngã” ấy của Thánh giả. Vô lượng vô biên chư Bồ Tát, hết thảy Thiên Long bát bộ đều phải đảnh lễ cái ngã trong vô ngã của bậc Thánh giả. Cái ngã ấy bao trùm khắp vô lượng vô biên vũ trụ. Có rất nhiều bậc Thánh giả. Họ là ai? Dưới đây, tôi sẽ giảng rõ.


 

Bổn-thân của ngài Long-Thọ Bồ-tát.


Đây là bản-thân của ngài Long-Thọ Bồ-tát. (Khi tụng phải tồn Tâm chớ sơ thất vì Bồ-tát tánh gấp). Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, Quy mạng lễ bái đấng Thánh-giả của con. 

 

Hữu uy tư thông nan tư nghị

Vô cầu Bất ứng Tam muội lực

Long-thọ Tôn-giả phục ma oan

Hành nhân mạc hoạn đắc Bồ đề.



11. Bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà


Bà lô kiết đế dịch là “Quán”.

Thất Phật ra dịch là “Tự tại” hoặc là thế âm. Âm thanh ở trong thế gian. Đây chính là Bồ-tát Quán Thế Âm.

Bà lô kiết đế thất Phật ra là Quán Thế Âm, cũng chính là Quán Tự Tại. Hai danh hiệu này không nhất định phải là Bồ-tát Quán Thế Âm mới được gọi là Quán Tự Tại hay Quán Thế Âm, mà nếu khi Quý vị đã đạt được tự tại rồi, thì Quý vị chính là Bồ-tát Quán Tự Tại. Khi Quý vị có được năng lực cứu độ tất cả mọi loài chúng sinh, thì Quý vị chính là Bồ Tát Quán Thế Âm. Vì vậy, một khi Quý vị đã thể nhập và vận dụng trọn vẹn pháp này rồi thì chính Quý vị là hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Nếu tôi đạt được tự tại trong việc vận dụng pháp này thì chính tôi cũng là hóa thân của Bồ-tát Quán Thế Âm.

Lăng đà bà dịch là “hải đảo”, chỉ cho núi Phổ Đà (Potala), nơi Bồ-tát Quán Thế Âm thường thị hiện. Có sách nói núi Phổ Đà ở nước Trung Hoa. Phổ Đà có nghĩa là “hoa trắng nhỏ” vì nơi núi ấy có loài hoa trắng nở rất nhiều. Trên núi có một cung điện được kiến tạo ở trong hang đá gọi là “Cung Từ Bi”, đó là nơi Bồ Tát Quan Thế Âm thường thị hiện. Nơi đó được trang hoàng bằng bảy thứ châu báu: vàng, bạc, xà cừ, pha lê, trân châu, ngọc bích, mã não. Nhưng không phải ai cũng đến được nơi cung điện này.

Bà lô kiết đế thất Phật ra là vị Bồ-tát có đầy tâm nguyện đại từ bi.

Lăng đà bà là cung điện Từ Bi, nơi Bồ-tát Quan Thế Âm thường thị hiện.


Viên-mãn Báo-thân Lô-Xá-Na Phật.


Bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà, Đây là đức Quán-Thế-Âm ở nơi hải đảo hiện tướng Viên-mãn Báo-thân Lô-Xá-Na Phật.

 

Viên-mãn Báo-thân Xá-na Phật

Hộ trì hành nhân tự tại đa

Thập phương thế giới văn thanh độ

Ly cấu xuất trần Pháp Ma Ha!



12. Nam-mô na ra cẩn trì


Trong câu chú này, Nam-mô vẫn có nghĩa là “Quy y” và “Quy mạng kính đầu”.

Na ra dịch nghĩa là “Hiền”-bậc hiền giả, chỉ cho hàng Bồ Tát.

Cẩn trì dịch là “ái”, có nghĩa là tình thương yêu. Trong ý niệm lòng Từ Bi bảo hộ, che chở cho mọi loài. Thế nên lòng từ bi của bậc Hiền giả (Bồ-tát) thường đem đến sự bao bọc, che chở cho chúng sinh. Trước đây tôi đã giảng về 10 loại tâm được đề cập trong Kinh Đại Bi Tâm Đà-la-ni. Quý vị nên y cứ theo mười loại tâm này mà công phu tu tập.

Na ra cẩn trì, Hán dịch là “Hiền ái thiện hộ” có liên quan đến nghĩa thứ nhất, nghĩa là thứ 6 và nghĩa thứ 10 trong 10 loại Tâm: Đó chính là Tâm Đại Bi, Tâm Cung Kính và Tâm Vô Thượng bồ đề.

Câu chú này đại biểu cho 3 loại tâm như trên.


Bổn-thân của Thanh-tịnh Pháp-thân

Tỳ-Lô-Giá-Na Phật.


Đây là Thanh-tịnh Pháp-thân Tỳ-Lô-Giá-Na Phật. Nam-mô na ra cẩn trìQuy mạng đấng hiền-ái. (Khi tụng phải tồn Tâm). Đó chính là Tâm Đại Bi, Tâm Cung Kính và Tâm Vô Thượng bồ đề.

 

Thanh-tịnh Pháp-thân Giá-na Phật

Quảng độ chúng sanh hóa Ta bà

Thành tựu Kim cang kiên cố thể

Đồng đăng bỉ ngạn mật Ba la.



13. 
Hê rị ma ha bàn đa sa mế


Hê rị có nghĩa là “Tâm”. Tâm này có ý nghĩa gì trong 10 nghĩa? Nghĩa thứ 4 là "vô nhiễm trước tâm". Tâm này giúp cho Quý vị duy trì bản tâm thanh tịnh của mình. Khi Quý vị khởi tâm niệm tham, sân, si, mạn, nghi… thì tâm Quý vị liền bị ô nhiễm, không còn thanh tịnh nữa. Khi tâm Quý vị không mong khởi những niệm ô nhiễm ấy, thì tâm Quý vị được thanh tịnh.

Ma ha có nghĩa là “Đại”, cũng có nghĩa là “Trường”.

Bàn đà sa mế nghĩa là sao? Nếu tôi không nói, chắc chắn Quý vị chẳng thể nào biết được. Nên Quý vị muốn biết thì trước tiên tôi phải giảng. Lúc đó Quý vị mới hiểu được. Quý vị mới nói rằng: “Thì ra ý nghĩa của cân chú ấy là như thế”. Bàn đà sa mế có nghĩa là “đại quang minh” nghĩa là hào quang rực rỡ chiếu khắp.

Bàn đà sa mế lại còn được dịch là “Trường chiếu mệnh” nghĩa là ánh sáng thường chiếu soi rộng khắp mọi nơi.

Nguyên câu Hê rị ma ha bàn đa sa mế có nghĩa là “Tâm đại quang minh”. Nghĩa là ánh sáng của tâm lực, quang minh của tâm lực thường chiếu rộng khắp, mãi mãi siêu việt cả không gian vô cùng, thời gian vô tận; từ một vi trần cho đến vô cùng vô tận thế giới đều có sự hiện hữu của ánh sáng ấy.

Quý vị sẽ nói: “à, cái đại quang minh của tâm ấy, tôi đã nghe trong kinh giảng nói rất nhiều rồi, và…”

Vâng, nhưng trừ khi Quý vị không nghe tôi giảng giải thần Chú Đại Bi thì Quý vị không thể nào biết được. Tôi sẽ giảng cho Quý vị rõ. Thật là khó gặp được người nào có thể giảng giải về Chú Đại Bi một cách rõ ràng tường tận. Thực vậy, hoàn toàn thực tình mà nói, không mấy người thể nhập được rốt ráo ý nghĩa của thần chú Đại Bi hoặc là chuyển được ý nghĩa của thần chú.

Sẽ có người hỏi: “Thế làm sao Sư phụ biết được?”

Quý vị khỏi cần phải hỏi tôi. Vì tôi đã không hỏi thì thôi, chứ Quý vị đừng nên hỏi tôi tại sao mà tôi biết được. Dĩ nhiên là tôi phải biết. Nếu tôi không biết, tôi không thể nào giảng giải cho Quý vị nghe được. Vì thế đừng nên hỏi tại sao tôi lại biết.

Thay vì Quý vị hỏi tại sao tôi biết, thì Quý vị hãy quay trở lại hỏi chính mình. Tại sao mình lại không biết? Nếu Quý vị biết được lý do tại sao mình không biết, thì Quý vị sẽ rõ được tại sao tôi biết. Trái lại, nếu Quý vị không thể nào rõ được tại sao Quý vị không biết, thì Quý vị cũng không thể nào rõ được lý do tại sao tôi biết. Đó chính là điều làm nên sự kỳ diệu vậy.

Chẳng hạn có người đã hỏi tôi rằng: “Tại sao Thầy làm người xuất gia?” Tôi đã không trả lời câu hỏi đó mà hỏi lại rằng: “Tại sao anh lại không làm người xuất gia? Nếu anh biết được lý do vì sao anh không xuất gia, thì anh sẽ hiểu được vì sao tôi lại xuất gia”. Hỏi về đạo lý trong Phật pháp cũng như vậy. Thay vì Quý vị hỏi: “Làm sao mà tôi hiểu được đạo lý ấy?”, thì Quý vị hãy tự hỏi lại chính mình tại sao mình không hiểu được. Khi Quý vị đã hiểu được tại sao mình không biết thì Quý vị sẽ hiểu được tại sao tôi lại biết được đạo lý ấy. Nay Quý vị đều là những người có nhiều thiện căn nên được dự pháp hội giảng chú Đại Bi. Vậy Quý vị phải nên hộ trì, bảo trọng cho thiện căn của mình. Tự mình phải khéo vận dụng thiện căn ấy để tu học và liễu nhập Phật pháp, đừng để hoài phí một phút giây nào cả.

Hiện tại chúng ta đang sống vào thời mạt pháp. Chư Phật và Bồ-tát rất ít thị hiện ở thế gian. Thời gian này, lòng người đang tiến dần đến chỗ hoang liêu, điêu tàn, không dễ gì gặp được chánh pháp, cũng không dễ gì gặp được bậc chân thiện tri thức.

Có lần tôi bảo các đệ tử rằng: “ở Đài Loan có mở Đại giới đàn, năm huynh đệ các con nên đến đó cầu thỉnh để được thọ giới pháp”. Các đệ tử gửi thư cho tôi biết nhiều người ở Đài Loan nói với họ rằng: “Chẳng cần phải tu hành gì cũng có thể thành tựu đạo nghiệp”. Các đệ tử của tôi trả lời rằng: “Chúng tôi cũng là những con người như những con người khác, nếu không chịu tu hành thì làm sao có thể tựu thành Phật đạo? Nếu không công phu hành trì thì làm sao liễu ngộ được chánh pháp”. Nếu Quý vị nói rằng không cần phải dụng công tu tập mà cũng thành Phật, liễu đạo thì trước đây đức Phật chẳng cần vào núi Tuyết tu suốt sáu năm làm gì, rồi sau đó đến ngồi dưới cội bồ đề tinh chuyên thiền định suốt 49 ngày, đến khi sao Mai vừa mọc thì Ngài tựu thành chánh giác.

Đức Phật còn phải tu hành mới thành tựu chánh giác. Còn mỗi chúng sinh như chúng ta, nếu không tinh tấn tu hành thì làm sao có thể thành Phật được? Ai ai cũng đều biết phải nhờ vào tu hành mới đạt được Phật quả, nhưng người chân thật tu hành thì rất ít; và ai cũng đều biết nếu không chịu tu hành thì đều có thể bị đọa vào địa ngục, nhưng người không chịu tu hành thì không sao kể xiết. Nghiệp lực thế gian thật là không thể nghĩ bàn!

Quý Phật tử! Sống trong thời mạt pháp mà có được điều kiện để nghiên cứu Phật pháp thì nên dõng mãnh tinh tấn lên, không nên biếng nhác, hãy siêng năng công phu, tinh cần đạo nghiệp mới mong có ngày thành tựu. Nếu không tinh tấn dõng mãnh mà mong thành tựu đạo nghiệp thì không thể nào có được.Vì thế nên Quý vị đừng ngại gian nan, khổ nhọc, chướng duyên, tai ách… mọi thứ nên quên. Phải đánh trống dõng mãnh lên để cho tinh thần phấn chấn, chỉ một hướng thẳng đến công phu mới mong có ngày thành tựu quả vị Phật.

Tôi đang nói về sự vi diệu của Phật pháp. Nếu Quý vị không phát khởi niềm tin vào trí tuệ siêu việt thì đạo lý này đối với Quý vị cũng chẳng có lợi ích gì. Quý vị có thể thâm nhập Phật pháp từ mọi sinh hoạt trong cuộc sống, từ mỗi bước chân lặng lẽ của thời gian trong toàn thể pháp giới…

Trong Phật pháp, điều gì Quý vị cũng muốn diễn bày cho rõ ràng minh bạch thì thường bị đánh mất những nghĩa lý sâu mầu vi diệu. Nay tôi dù có trình bày hết về diệu lý của Phật pháp, nhưng nếu Quý vị không tin sâu và không hành trì thì điều tôi giảng không còn là diệu pháp nữa. Hơn nữa sự hành trì cần phải thường xuyên vào mọi lúc, mọi nơi với tinh thần tinh tấn, không lui sụt, không biếng nhác. Đây là điều khẩn thiết nhất. Nếu Quý vị mọi thời, mọi lúc đều hướng về phía trước mà nỗ lực công phu thì nhất định một ngày kia sẽ trực nhận ra “mặt mày xưa cũ” của chính mình.

Bàn đà sa mế dịch nghĩa là “đại quang minh” hay “trường chiếu minh”, tiêu biểu cho nghĩa thứ năm trong mười nghĩa của tâm, đó là “quán tâm không”. Thông qua “quán tâm không”, hành giả mới có được trí huệ. Với trí huệ, hành giả mới có được quang minh. Có được quang minh, mới tỏa chiếu, soi sáng khắp mọi pháp giới được. Tức là không còn tối tăm, mê muội, tức là không còn vô minh.

Sao gọi là “vô minh”, vì tâm của Quý vị không có được sự tỏa chiếu soi sáng khắp mọi pháp giới, do vì Quý vị không có được “đại quang minh”. Nếu Quý vị có được “đại quang minh” thì tâm Quý vị liền có được sự tỏa chiếu soi sáng khắp mọi pháp giới, có nghĩa là Quý vị đã chuyển hóa được vô minh. Một khi vô minh đã bị chuyển hóa sạch rồi, thì pháp tánh hiển hiện, đây chính là trí huệ chân thật của Quý vị.

Thuở xưa vào triều đại nhà Lương ở Trung Hoa có Thiền sư Chí Công là một bậc Đại đức cao tăng. Không sử sách nào ghi lại song thân của Thiền sư là ai. Người ta thường kể với nhau rằng: Một hôm nọ, có người phụ nữ nghe tiếng khóc của một hài nhi trên cành cây cao. Cô ta trèo lên, thấy một hài nhi nằm trong tổ chim ưng, bèn đem hài nhi về nuôi. Tuy thân thể hài nhi này hoàn toàn giống như người nhưng những móng tay, móng chân giống như móng chim ưng. Khi trưởng thành, xuất gia tu đạo, chứng được ngũ nhãn lục thông. Không biết cha mẹ Ngài là ai, chỉ biết Ngài sinh trong tổ chim ưng nên mọi người đều phỏng đoán Ngài được sinh ra từ trứng chim ưng vậy.

Thời ấy, vua Lương Vũ Đế cũng như mọi người đều rất kính trọng và tin phục các Thiền sư. Bất luận khi họ gặp những sự kịên gì trong đời sống, như sinh con, cha mẹ qua đời, cưới hỏi… họ đều cung thỉnh các Thiền sư đến để tụng kinh chú nguyện.

Một hôm, có một gia đình giàu có thỉnh Thiền sư đến tụng kinh chú nguyện nhân dịp đám cưới người con gái của họ, đồng thời thỉnh Thiền sư ban cho vài lời chúc mừng để mong rằng trong tương lai, việc hôn nhân đều được tốt lành như ý. Thiền sư Chí Công đến nhà ấy, khi nhìn thấy cô dâu chú rể, Ngài liền nói:

“Thật cổ quái, thật cổ quái!”
“Cháu cưới bà nội”

“Thật cổ quái” nghĩa là xưa nay chưa từng có một việc như vậy. Đây không phải là chuyện xưa nay thường xảy ra. Thật kỳ lạ khi nhìn một đứa cháu cưới bà nội mình làm vợ. Trên thế gian này, nếu không thông đạt những nhân duyên trong thời quá khứ thì không thể nào lý giải được những mối quan hệ cha con, mẹ con, vợ chồng, anh em, bè bạn… của nhau. Vì sao? Vì mọi người đều có thể là chồng hoặc vợ của nhau trong đời trước. Một người có thể là cha hoặc là con của nhau trong nhiều đời trước. Hoặc một người đều là mẹ và con gái của nhau trong đời trước. Ông nội của Quý vị trong đời trước lại kết hôn với cháu gái của Quý vị trong đời này. Hoặc là bà ngoại đời trước lại tái sinh làm con gái của Quý vị. Tất cả mọi việc đều có thể xảy ra, và đều chịu sự biến hóa khôn lường.

Trong nhà này, chuyện “cháu cưới bà nội” là do trước kia, khi bà nội sắp mất, bà trăn trối lại với toàn gia quyến: “Con trai ta vừa mới cưới vợ và đã có con nối dòng. Con gái ta cũng đã có chồng, ta không còn bận tâm gì nữa”. Bà ta hoàn toàn thỏa mãn và đã gạt mọi sự bận tâm qua một bên, ngoại trừ một điều: còn đứa cháu nội, “tương lai rồi sẽ ra sao? Ai sẽ chăm sóc nó? Liệu người vợ của nó có đảm đang hay không? Ta không thể nào không lo cho nó được!”

Bà nắm tay đứa cháu nội và qua đời. Người ta bảo rằng nếu mọi việc đều toại nguyện, lúc lâm chung có được tâm trạng thơ thới thì người chết sẽ nhắm mắt. Còn nếu không, thì người chết không nhắm mắt được. Bà lão nói: “Bà rất lo lắng cho cháu, bà chết không nhắm mắt được”. Nói xong, bà ra đi mà mắt vẫn mở. Thần thức của bà vẫn còn lo âu. Khi đến gặp Diêm vương, bà ta than khóc, thưa rằng:

- Tôi còn đứa cháu nội, không ai chăm sóc nó.

Diêm vương đáp:

- Được rồi, bà hay trở lại dương gian chăm sóc cho nó

Nói xong, bà ta được đầu thai trở lại trong cõi trần. Khi đến tuổi thành hôn, bà ta lấy người cháu nội trước đây của bà ta. Vì vậy nên nói “cháu lấy bà nội”. Quý vị thấy có phải là cổ quái thật không?

Chỉ vì một niệm ái luyến không buông xả được mà tạo nên biết bao duyên nghiệp buộc ràng về sau. Bà ta chỉ vì bận tâm vì đứa cháu, mà về sau phải làm vợ cho nó. Quý vị thử nghĩ lại xem, đây chẳng phải là chuyện cổ quái hay sao?

Quý vị sẽ hỏi: “Làm sao mà Thiền sư Chí Công biết được điều ấy?” Thiền sư biết được là vì Ngài đã đạt được ngũ nhãn và lục thông. Nên chỉ cần nhìn qua, là Ngài liền biết được ngay kiếp trước của cô dâu vốn là bà nội của chú rể. Chỉ vì bà nội đã khởi một niệm ái luyến sai lầm nên nay phải đầu thai trở lại làm người, và làm vợ của đứa cháu nội mình. Một niệm lành còn như thế huống gì là niệm ác, hoặc khởi trùng trùng niệm ác thì luân hồi trong tam đồ lục đạo biết bao giờ dứt, biết bao giờ mới mong ra khỏi.

Thiền sư lại nhìn trong số khách đến dự đám cưới, có một bé gái đang ăn thịt, Ngài nói: “Con gái ăn thịt mẹ”.

Vì miếng thịt mà em bé đang ăn là thịt dê, con dê này vốn là mẹ của em bé đầu thai lại. Kiếp trước bà ta đã tạo nghiệp ác quá lớn nên đã phải đọa làm dê. Nay lại bị chính con mình ăn thịt. Vòng oán nghiệp khởi dậy do vô minh của chúng sinh không lời nào kể hết được. Chư Bồ Tát thương xót, phát tâm cứu độ chúng sinh là do điểm này.

Khi Thiền sư nhìn các nhạc công, thấy có vị đang đánh trống. Ngài nói:

“Con trai đang đánh bố”.

Vì cái trống ấy bịt bằng da lừa. Con lừa này chính là cha của anh nhạc công đầu thai vào. Con lừa này bị giết thịt, lấy da làm mặt trống. Thật là đau thương cho kiếp luân hồi.

Ngài nhình quanh đám cưới, nói tiếp:

“Heo dê ngồi ở trên”

Ngài thấy có vô số loài heo, cừu, dê, gà được đầu thai trở lại làm người, nay họ đều là bà con thân quyến của nhau nên cũng đến dự đám cưới này.

Nhìn trong bếp, Ngài nói:
“Lục thân bị nấu trong nồi”.

Chính là cha mẹ, anh em, bà con, bè bạn do kiếp trước đã sát sinh heo, gà quá nhiều để ăn, nay lại bị đọa làm heo, dê, gà trở lại; rồi bị giết thịt, bỏ vào nồi chiên nấu trở lại.

Ngài nói tiếp:

“Mọi người đều vui vẻ chúc mừng nhau”

Mọi người đến dự đám cưới đều rất vui vẻ mà chúc tụng nhau.

Ngài tự than với mình rằng:

“Trông thấy cảnh ấy mà lòng đau xót, ta biết đó chính là những oán nghiệp xoay vần vay trả, tạo nên nỗi khổ chất chồng”.

Thiền sư Chí Công biết rõ nhân quả khi nhìn vào gia đình này. Làm sao chúng ta có thể hiểu được hết chuỗi nhân quả của từng gia đình với trùng trùng khác biệt nhau ra sao. Cho nên những người tu đạo phải rất cẩn trọng trong khi tu nhân, vì khi nhân duyên chín mùi sẽ gặt lấy quả tương ứng với nhân đã gieo. Tại sao người lại trở lại làm người? Là để trả nợ, trả những món nợ nhân quả ở thế gian. Nếu Quý vị không tìm cách trả món nợ này thì nợ nần vẫn tiếp tục, như món nợ đã vay của ngân hàng vậy.

Tôi nhớ một câu chuyện này nữa. Có một gia đình nuôi một con lừa, dùng nó để kéo cối xay và chuyên chở. Người chủ thấy lừa quá chậm chạp nên thường dùng roi đánh nó để thúc giục. Con lừa làm việc miệt mài trong cực nhọc cho đến khi chết. Nó được đầu thai làm người. Khi người chủ hay đánh đập lừa chết, lại đầu thai làm một người phụ nữ. Khi cả hai người này đến tuổi thành hôn thì họ cưới nhau.

Quý vị có biết cặp vợ chồng này sống với nhau như thế nào không? Suốt ngày người chồng đánh đập người vợ. Ông đánh vợ bất kỳ lúc nào, bất luận đang cầm vật gì trên tay, cả lúc đang ăn cơm cũng đánh vợ bằng đũa. Ông ta vừa đánh vừa chửi, cho dù người vợ chẳng làm điều gì sai trái.

Một hôm Thiền sư Chí Công đi qua nhà họ. Người phụ nữ bèn thưa với Ngài:

- Chồng con ngày nào cũng đánh và chửi con qúa chừng mà con không biết tại sao. Bạch Ngài, xin Ngài hãy dùng ngũ nhãn, lục thông bảo cho con biết mối tương quan nhân quả của chúng con đời trước ra sao mà đời này chồng con đánh đập và chửi mắng con hoài vậy?

Thiền sư Chí Công đáp:

- Tôi sẽ nói rõ tương quan nhân quả của hai người cho mà nghe. Trong đời trước, bà là một người đàn ông. Ngày nào bà cũng đánh đập chửi mắng con lừa, thúc giục nó phải kéo cối xay bột.

Ông chủ ấy thường đánh con lừa bằng cái chổi tre. Nay ông chủ được đầu thai lại làm người phụ nữ, đó chính là bà. Còn con lừa thì được đầu thai làm người chồng. Nay ông ta thường hay đánh đập chửi mắng bà cũng như kiếp trước bà đã thường đánh chửi ông tức là con lừa vậy. Nay bà đã hiểu rõ nhân quả tương quan với nhau rồi, tôi sẽ bày cho một cách để chấm dứt vòng oán nghiệp này. Bà hãy cất giấu tất cả mọi dụng cụ trong nhà ngoại trừ cái chổi đuôi ngựa (chổi dây). Khi người chồng thấy chẳng còn vật gì dùng để đánh cô, anh ta sẽ cầm chổi dây này để đánh. Cứ để cho anh ta đánh vài trăm roi, thì nợ cũ của bà mới được trả. Lúc đó, bà mới báo cho anh ta biết nhân đời trước và quả đời sau báo ứng với nhau rất rõ ràng như tôi vừa giải thích cho bà. Anh ta sẽ không còn đánh bà nữa.

Người phụ nữ làm đúng như lời Thiền sư Chí Công chỉ dạy. Khi người chồng về đến nhà, ông ta liền kiếm vật gì đó để đánh vợ. Chỉ còn thấy chiếc chổi đuôi ngựa, ông ta cầm lấy và đánh. Thông thường như mọi khi, cô ta tìm cách chạy trốn. Nhưng lần này cô ta kiên nhẫn ngồi đó chịu đòn cho đến khi ông chồng ngừng tay.

Thấy lạ, ông ta hỏi tại sao bà không bỏ chạy. Cô ta kể lại việc được Thiền sư Chí Công giải thích cặn kẽ tương quan nhân quả của hai người. Ông chồng nghe xong ngẫm nghĩ: “Như thế thì từ nay ta không nên đánh chửi cô ta nữa. Nếu còn đánh, thì kiếp sau cô ta sẽ đầu thai trở lại rồi tìm ta để đánh chửi”. Từ đó ông chồng không còn đánh mắng người vợ nữa.

Thế nên Quý vị phải biết mọi người đều có sự quan hệ với nhau tương ứng với nhân đã tạo. Quý vị chẳng thể nào biết được trong đời trước, ai đã từng là mẹ, là anh, là cha hay là chị em của mình. Cái nhân đã tạo ở đời trước sẽ tạo thành quả đời này và nhất định có liên quan đến bà con quyến thuộc của mình. Nếu Quý vị hiểu được đạo lý nhân quả, thì Quý vị có thể chuyển hóa, biến cải được nhân bằng cách từ bỏ những việc ác.

Còn một chuyện nữa về Thiền sư Chí Công. Một ngày Ngài ăn hai con chim bồ câu. Ngài rất thích món ăn này. Người đầu bếp nghĩ rằng món thịt bồ câu chắc là rất ngon nên ngày nọ anh ta quyết định nếm thử. Anh ta làm việc này với hai ý nghĩ: một mặt là muốn thử xem thức ăn hôm nay mình làm có ngon hay không? một mặt khác anh ta nghĩ rằng Ngài Chí Công ngày nào cũng thích ăn bồ câu, nhất định đây là một món ăn rất ngon, nên muốn thưởng thức một chút rồi mới đem đến cho Thiền sư dùng.

Khi người đầu bếp mang thức ăn đến. Ngài nhìn đĩa thức ăn và hỏi:

- Hôm nay có ai nếm trộm thức ăn này? Có phải chính anh không?

Người đầu bếp liền chối. Thiền sư liền bảo:

- Anh còn chối. Tôi sẽ cho anh thấy tận mắt ai là người nếm trộm. Hãy nhìn đây!

Ngài liền ngồi ăn. Ăn hết hai con bồ câu rồi, Ngài liền há miệng rộng, trong đó, một con bồ câu liền vẫy cánh bay ra còn con kia thì bị mất một cánh, không thể bay lên được.

Thiền sư mới bảo:

- Anh thấy đó, nếu anh không nếm trộm thì tại sao con bồ câu này không thể bay được?

Chính là vì ông đã ăn hết một cánh của nó.

Chuyện này làm cho anh đầu bếp biết Thiền sư Chí Công không phải là người thường. Ngài chính là hóa thân của Bồ-tát. Thế nên Ngài có năng lực biến những con bồ câu bị nấu thành thức ăn rồi thành bồ câu sống. Không phải là Bồ-tát, không làm chuyện này được.

Thiền sư Chí Công còn thường ăn một loại cá gọi là Tuệ Ngư. Cũng đem cá ra nấu nướng rồi Ngài ăn từ đuôi lên đầu. Nhưng sau đó Ngài lại há miệng ra làm cá sống lại. Vì vậy, những việc này là rất thường đối với cảnh giới của hàng Bồ-tát. Thiền sư Chí Công là một vị Bồ-tát, nhưng không bao giờ Ngài nói: “Các ngươi biết không, ta là một vị Bồ-tát, ta đang giáo hóa chúng sanh, ta có đại nguyện này, hạnh nguyện kia…” Các vị không bao giờ mong khởi ý niệm ấy. Cho nên chúng ta là hàng phàm phu, dù có thấy Chư Phật hay Bồ-tát cũng không thể nào nhận biết được. Việc làm của Bồ-tát cũng gần như hành xử của người thường, nhưng thực chất lại không giống nhau. Là vì phàm phu khi hành động chỉ nghĩ đến lợi ích của chính mình, không nghĩ đến sự giúp đỡ cho người khác. Còn Bồ-tát thì chỉ nghĩ đến lợi ích của người khác mà không nghĩ đến mình. Khác nhau là ở điểm này. Bồ-tát thì tự làm lợi ích cho mình còn lo làm lợi ích cho người khác. Tự giác ngộ mình xong rồi giúp cho người khác giác ngộ. Tự độ hoàn toàn, lợi tha hoàn toàn. ý nghĩa của chú Đại Bi mà tôi đang giảng cũng nằm trong đạo lý này vậy.


Ngài Dương-Minh-Đầu Thần-Dương.


Đây là Dương-Minh-Đầu Thần-Dương cùng các Thiên-ma làm quyến-thuộc. Hê rị ma ha bàn đa sa mế, Tâm rất sáng suốt. Nghĩa là Tâm Chẳng-nhiễm-trước và Tâm Không-quán.


Từ năng dữ lạc Bi bạt khổ

Phổ hóa quần sanh thành Phật tổ

Dương-đầu Thần-vương hộ hành nhân

Hổ lang ác thú giai vô trở.



HAI CÁI NHÂN ĐIÊN ĐẢO

 

 

Phật dạy: "A-nan, nên biết diệu-tánh là viên-minh, rời các danh-tướng, bản-lai không có thế-giới chúng-sinh. Nhân cái vọng mà có sinh, nhân cái sinh mà có diệt, sinh-diệt gọi là vọng, diệt vọng gọi là chân, ấy gọi là hai hiệu chuyển-y vô-thượng Bồ-đề và Đại-niết-bàn của Như-lai.

A-nan, nay ông muốn tu pháp Chân-tam-ma-đề, đến thẳng Đại-niết-bàn của Như-lai, trước hết, phải biết hai cái nhân điên-đảo của thế-giới và chúng-sinh nầy; điên-đảo không sinh, đó là Chân-tam-ma-đề của Như-lai.

A-nan, thế nào gọi là điên-đảo về chúng-sinh? Do cái tâm bản-tánh  là minh và tánh-minh ấy viên-mãn cùng khắp, nên nhân tánh -minh phát ra hình-như có tánh ; mà vọng-kiến nhận là có tánh  sinh ra, từ chỗ rốt-ráo là không, lại thành rốt-ráo là có. Có cái sở-hữu như thế, là do phi-nhân làm nhân và những tướng năng-trụ, sở-trụ rốt-ráo không có cỗi-gốc. Rồi gốc nơi cái vô-trụ đó, mà kiến-lập ra thế-giới và các chúng-sinh.

Vì mê, không nhận được tánh  viên-minh sẵn có, nên sinh ra hư-vọng, tánh  hư-vọng không có tự-thể, không phải thật có chỗ nương-đứng. Hầu muốn trở lại chân-tánh , thì cái muốn chân đó, đã không phải là tánh  chân-như chân-thật. Cầu trở lại không đúng chân-lý, thì hiện-thành ra những phi-tướng: không phải sinh gọi rằng sinh, không phải trụ gọi rằng trụ, không phải tâm gọi rằng tâm, không phải pháp gọi rằng pháp.

Xoay-vần phát-sinh và sinh-lực phát-huy, huân-tập thành ra nghiệp-báo; đồng-nghiệp thì cảm với nhau, nhân đó, lại cảm ra các nghiệp diệt nhau, sinh nhau, do đó, mới có điên-đảo về chúng-sinh.

A-nan, thế nào gọi là điên-đảo về thế-giới? Do có cái sở-hữu đó, nên từng phần, từng đoạn giả-dối sinh ra, vì thế, mà không-gian thành-lập; do phi-nhân làm nhân, không có năng-trụ, sở-trụ, nên dời-đổi mãi, không có năng-trụ, sở-trụ, nên dời-đổi mãi, không an-trụ, vì thế, mà thời-gian thành-lập. Ba đời bốn phương, hòa-hợp can-thiệp cùng nhau, chúng-sinh biến-hóa thành 12 loài. Vậy nên trong thế-giới, nhân động có tiếng, nhân tiếng có sắc, nhân sắc có hương, nhân hương có xúc, nhân xúc có vị, nhân vị biết pháp, sáu vọng-tưởng càn-loạn thành ra nghiệp-tánh , do đó, 12 cách đối-hiện xoay-vần mãi mãi. Vậy nên trong thế-gian, những thanh, hương, vị, xúc biến-đổi cùng-tột, đến 12 lần xoay trở lại.



CHẤP TÂM KHÔNG DÍNH DÁNG VÀO ĐÂU TẤT CẢ

 

Ông A-nan bạch Phật: "Thưa Thế-tôn, trước đây tôi thấy Phật cùng chuyển pháp-luân với 4 vị đại-đệ-tử là Đại-mục-liên, Tu-bồ-đề, Phú-lâu-na, Xá-lỵ-phất, Phật thường dạy : Cái tính của tâm hay-biết cũng chẳng ở trong, cũng chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở chặng giữa, chẳng ở chỗ nào cả, không dính-dáng vào đâu tất-cả thì gọi là tâm. Vậy tôi lấy cái không dính-dáng của tôi mà gọi là tâm, có được chăng?".

Phật bảo ông A-nan: "Ông nói tính của tâm hay-biết, không ở đâu cả. Vậy các vật-tượng thế-gian như hư-không và các loài thủy, lục, không, hành, gọi là tất-cả sự-vật mà ông không dính-dáng vào, là có hay là không có? Không, thì đồng như lông rùa, sừng thỏ, còn gì mà không dính-dáng? Đã có cái không dính-dáng thì không thể gọi là không. Không có tướng thì là không, không phải không thì có tướng; có tướng thì có chỗ ở, làm sao lại không dính-dáng được. Vậy nên biết rằng ông nói cái không dính-dáng vào đâu tất-cả gọi là tâm hay-biết, thật không có lẽ nào như vậy".

 

Nếu ông quyết-chấp cái tính hay-biết suy-xét phân-biệt là tâm của ông thì cái tâm ấy phải rời sự-nghiệp các trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, riêng có toàn-tính; chứ như hiện nay ông vâng nghe pháp-âm của tôi, đó là nhân cái tiếng mà có phân-biệt: dầu cho diệt hết tất-cả cái thấy, nghe, hay, biết, bên trong nắm-giữ cái u-nhàn, không biết, không nghĩ thì đó cũng còn là sự phân-biệt bóng-dáng pháp-trần mà thôi.

Chẳng phải tôi bảo ông chấp cái ấy không phải là tâm, nhưng ông phải, chính nơi tâm ông, suy-xét chín-chắn, nếu rời tiền-trần có tính phân-biệt, thì đó mới thật là tâm của ông. Nếu tính phân-biệt, rời tiền-trần, không còn tự-thể thì nó chỉ là sự phân-biệt bóng-dáng tiền-trần. Tiền-trần không phải thường-trụ, khi thay đổi diệt mất rồi, thì cái tâm nương vào tiền-trần ấy cũng đồng như lông rùa sừng thỏ và pháp-thân của ông cũng thành như đoạn-diệt, còn gì mà tu-chứng vô-sinh-pháp-nhẫn”. 

 

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM



14. Tát bà a tha đậu thâu bằng


Câu chú này chia làm ba phần. Khi trì tụng lên, câu chú có ba nghĩa khác nhau:

Tát bà có nghĩa là “tất cả”. Còn có nghĩa là “bình đẳng”. Nên Tát bà biểu tượng cho ý thứ hai trong mười tâm, là “Bình đẳng tâm”.

A tha đậu dịch nghĩa là “phú lạc vô bần” giàu có, an lạc, không nghèo nàn về tâm linh, đạo lý, Phật pháp.

Còn dịch nghĩa là “như ý bất diệt”.

“Như ý” nghĩa là ước nguyện điều gì cũng đều được thành tựu.

“Bất diệt” nghĩa là sự thành tựu do nguyện ấy vĩnh viễn không tiêu mất.

Trong mười loại tâm thì đây là “Vô vi tâm” nghĩa là “phú lạc vô bần” và “như ý bất diệt”.

Thâu bằng dịch là “nghiêm tịnh vô ưu”, là thanh tịnh và trang nghiêm. Trang nghiêm lại thêm thanh tịnh, cho nên không có sự lo phiền, ưu não. Câu chú này biểu tượng cho tâm thứ chín “Vô kiến thủ tâm”. Kiến thủ là một trong năm món “ngũ lợi sử”. Nghĩa là khi Quý vị vừa trông thấy một vật gì, tâm liền khởi niệm muốn chiếm đoạt, giữ lấy. Nên với tâm thứ chín-vô kiến thủ tâm là trạng thái không có mảy may vọng động về sự chấp thủ đối với pháp và ngã; đối với chủ thể cũng như khách thể; đối với ngoại cảnh cũng như dòng chuyển biến của thức tâm.


Ngài Cam-lộ Bồ-tát.

(cũng là ngài Quán-Thế-Âm)

 

Đây là ngài Cam-lộ Bồ-tát, thuộc về bộ lạc của ngài Quán-Thế-Âm Bồ-tát. Tát bà a tha đậu thâu bằng, Hay cho tất cả sự giàu sang – không nghèo, sự nghiêm sạch – không lo. Nghĩa là Tâm Bình-đẳng, Tâm Vô-vi và Tâm Vô-kiến-thủ.

 

Cam-lộ Quán-đảnh hoạch thanh lương

Phổ cứu quần manh đắc an khang

Lục đạo tứ sanh thành lợi lạc

Từ bi Hỷ xả trợ Pháp vương.

 


15. A thệ dựng


A thệ dựng  tiếng Phạn, dịch nghĩa “Vô tỷ pháp”. Không có pháp nào có thể so sánh được với pháp này. Còn có nghĩa là “Vô tỷ giáo” nghĩa là không có đạo giáo nào có thể so sánh được. Câu chú này biểu tượng cho tâm thứ bảy, được gọi là “Ty hạ tâm”, là tâm rất cung kính và tùy thuận bất kỳ người nào mình gặp. Câu chú này còn biểu tượng cho tâm thứ tám, gọi là “Vô tạp loạn tâm”. Đây chính là pháp thanh tịnh, không chút cấu nhiễm, chính là Tâm pháp bát nhã của Quán Thế Âm Bồ-tát.

Mười loại tâm :

1. Tâm đại Từ bi 

2. Tâm bình đẳng 

3. Tâm vô vi 

4. Tâm chẳng nhiễm Trước 

5. Tâm không quán 

6. Tâm cung kính 

7. Tâm khiêm nhường 

8. Tâm không Tạp loạn 

9.Tâm không chấp giữ 

10.Tâm vô Thượng Bồ Đề

là Tướng-mạo của môn Đà-ra-ni này, chúng ta phải đem những đạo lý này hành trì không quên lãng  và gián đoạn. Chúng ta tu tập theo tinh thần của kinh Đại bi tâm Đà-ra-ni thì chắc chắn sẽ thành tựu đạo nghiệp, đắc thành chánh quả.



Ngài Phi-Đằng-Dạ-Xoa-Thiên-Vương.
(tuần hành khắp bốn phương)

 

Đây là  Phi-Đằng-Dạ-Xoa-Thiên-Vương bay khắp bốn phương xét việc thiện ác. A thệ dựng, Xin nương Pháp Vô-tỷ. Nghĩa là Tâm Khiêm-nhường  Tâm Không-tạp-loạn

 

Dạ xoa Thiên vương phi Hổ bì

Thưởng thiện Phạt ác chửng nguy cấp

Tuần hành Tứ phương ký công quá

Chủ trì Công đạo Bình đẳng tề.



16. Tát bà tát đa, na ma bà tát đa, na ma bà già


Tát bà tát đa là tiếng Phạn, dịch là bậc Bồ-tát thân tâm rộng lớn”.


Na ma bà tát đa. Hán dịch là bậc đồng Chơn-Khai-Sĩ”, là tên gọi khác của pháp vương tử, cũng là hàng Bồ-tát. “đồng Chơn” biểu tượng cho bản tánh. Còn “Khai-Sĩ” cũng là một danh hiệu khác của Bồ –tát, có nơi gọi là “đại sĩ”. Các vị Bồ-tát lúc sắp thành tựu Phật quả, đều được gọi là pháp vương tử, tên gọi của hàng Thập địa Bồ-tát.


Na ma bà già. Hán dịch là “Vô đẳng đẳng”. Giống như ý nghĩa trong Bát nhã tâm kinh “Cố tri Bát-nhã ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô lượng chú, thị vô đẳng đẳng chú”.

Quý vị có thể hỏi: “Cái gì không thể sánh bằng?” Đó là bà già, Hán dịch là "Thế tôn”. Bà già là chư Phật thường trụ ở khắp trong mười phương.


Ngài Bà-Già-Đế Thần-Vương.

(tay cầm thiết-xoa)

Đây là ngài Bà-Già-Đế Thần-Vương thân hình đen, cao lớn, dùng da beo làm khố, tay cầm thiết-xoa. Tát bà tát đa Na ma bà tát đa Na ma bà già,  Cùng tất cả bậc Bồ-tát, bậc đồng Chơn-Khai-Sĩ thân tâm rộng lớn, Quy mạng đấng Vô đẳng đẳng Thế-tôn.

 

Quán Âm hóa hiện Thần-vương thân

Thiên thủ Pháp bảo diệu nan cùng

Xà kế Hắc diện phục yêu quái

Chánh pháp cửu trụ nguyện hoằng thâm.



17. Ma phạt đạt đậu


Ma phạt đạt đậu dịch nghĩa là Thiên-Thân, Thế-Hữu”.


Thiên-Thân là Thân quyến ở cõi Trời. 

Thế-Hữu là Người bạn ở cõi Thế gian.


Câu chú này có nghĩa là: “Kính lạy chư Bồ-tát, xin hãy duỗi lòng từ cứu giúp con. Xin các Ngài hãy là thân quyến ở cõi trời của chúng con và là người bạn ở cõi thế gian này của chúng con, để hộ trì cho mọi thiện pháp được thành tựu”.


Câu chú này thỉnh nguyện sự gia trì của mười phương chư Phật và chư Bồ-tát làm Thiên-Thân, Thế-Hữu”.


Bổn-thân ngài Quân-Tra-Lợi Bồ-tát.

 

Đây là bản-thân của ngài Quân-Tra-Lợi Bồ-tát có ba con mắt, một tay cầm thiết-luân, một tay cầm dây. Ma phạt đạt đậu, Thỉnh nguyện chư Phật và chư Bồ-tát làm “Thiên-Thân, Thế-Hữu”.

 

Thiện-nhân hoan hỷ Ác-nhân bố

Ưu khổ viễn ly vạn bệnh liêu

Phật nhãn quán sát biến Pháp giới

Kim luân thôi diệt nhất thiết ma.



18. Đát điệt tha


Trong Bát nhã tâm kinh có nói: “Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết...”


Đát điệt tha Hán dịch là “tức thuyết chú viết”. Còn dịch là “Sở vị”. Bồ-tát Quán Thế Âm dùng Tâm đại bi mà nói ra chơn ngôn này, nói bằng các chủng tự của Phạm Thiên.

Đát điệt tha còn có nghĩa là “thủ ấn” nghĩa là kết ấn bằng tay. Cũng gọi là “trí nhãn nghĩa là khai mở con mắt trí huệ của chúng sinh.

Đát điệt tha lại còn có nghĩa là vô lượng pháp môn tu học và trí huệ nhãn vô lượng. Đó là ý nghĩa của “Sở vị”.


Bổn-thân của ngài A-Ra.

 

Đây là lời Kiếm-ngữ (ngôn ngữ Bát-nhã Ba-la-mật-đa).  Bổn-thân của ngài A-Ra. Đát điệt tha, Lời nói Chơn-ngôn rằng.


Xuất quảng Trường thiệt biến tam thiên

Quán âm Thị hiện hóa Nam nữ

Ứng cúng Sát tặc A-la-hán

Tự lợi Lợi tha giác hạnh viên.



19. Án! A bà lô hê


Chữ Án! Như đã nói ở trước, khi Quý vị trì niệm trì niệm đến chữ án thì quỷ thần đều phải chắp tay cung kính, lắng nghe người niệm chỉ giáo. Chữ án còn có công năng lưu xuất nhiều pháp môn sau đây.


A bà lô hê chính là Bồ-tát Quán Thế Âm. Có nghĩa là “Quán sát”. Dùng trí huệ để quán sát mọi âm thanh ở thế gian. Trong thế gian có nhiều loại âm thanh. Bồ-tát Quán Thế Âm quán sát âm thanh, tiếng kêu than cầu xin cứu khổ của người ở thế gian khi họ không thể vượt qua nổi những khổ nạn.


Bổn-thân của ngài Quán-Thế-Âm Bồ-tát.


Đây là Bản-thân của đức Quán-Thế-Âm tay chắp ngang ngực. Án! A bà lô hê, Đức Bản-Mẫu Quán-Thế-Âm Tự-Tại.

 

Quỷ thần cung kính thính Phạm-âm

Tam mục động tất chúng sanh Tâm

Nhất thiết cầu nguyện giai thành tựu

Vạn hành đồng nhập Bát nhã môn.



20. Lô ca đế


Lô ca đế nghĩa là “Tự tại” hoặc là “Thế Tôn”. Hợp lại hai câu trên A bà lô hê, Lô ca đế nghĩa là Bồ-tát dùng trí huệ để quán sát âm thanh ở thế gian. Chính là danh hiệu của "Bồ-tát Quán Thế Âm".


Lô ca đế cũng là Bản-thân của ngài "Đại-Phạm Thiên-Vương" ở Sắc Giới Thiên, được gọi là “Đại Tự Tại Thiên”.

 

Bổn-thân của ngài Đại-Phạm Thiên-Vương.


Đây là Bản-thân của ngài Đại-Phạm Thiên-Vương cai quản bộ lạc Thần-tiên. Lô ca đế, Bậc Bi-tâm.

 

Đại-phạm Thiên-vương suất Thần binh

Thập phương Bồ tát đồng hiện thân

Độ thoát Chúng sanh xuất khổ hải

Tốc đăng Bỉ ngạn tịch diệt thành.



21. Ca ra đế


Ca ra đế dịch là “Bi giả” là người có lòng từ bi rộng lớn, thường cứu giúp chúng sinh thoát khỏi khổ đau và thất vọng. Người mà có thể cứu giúp cho chúng sinh vơi bớt khổ đau là một người “đại bi”. Ca ra đế còn có nghĩa là “tác giả”. Người có thể làm cho đạo nghiệp sinh khởi, giúp cho mọi chúng sinh đều phát tâm bồ-đề, phát nguyện làm những việc khó làm như hành Bồ-tát đạo để tiến tới tựu thành Phật quả.


Ca ra đế cũng là Vô-vi-tâm. “Vô vi” có nghĩa là không làm; thế thì “không làm” điều gì? Đó là không làm những việc tà vạy, không khởi tà niệm, không sanh tà tri tà kiến. Cái tâm luôn nhắc nhở quý vị chớ nên làm điều xấu xa bại hoại, được gọi là tâm vô vi. Quý vị không làm điều xấu điều ác, tức là quý vị đang niệm Chú Đại Bi! Nếu quý vị vừa niệm Chú Đại Bi lại vừa làm điều sai trái, tức là quý vị không có tâm vô vi; và như thế có nghĩa là quý vị không niệm Chú Đại Bi vậy!


Bổn-thân của ngài Đế-Thần.

 

Đây là Đế-Thần, thân hình cao lớn, mình đen. Ca ra đế, Bậc Vô-vi-tâm.

 

Hắc sắc Đế-thần hiển uy phong

Đông tây Nam bắc nhậm tung hoành

Phát lung Chấn hội từ bi chủ

Nhật dạ Bất hưu cứu chúng sanh.



22. Di hê rị


Di hê rị dịch nghĩa là “Thuận giáo”. Khi Quý vị trì tụng đến câu chú này, nghĩa là Quý vị tự phát nguyện: “Con nhất quyết thực hành theo hạnh nguyện của Bồ-tát Quán Thế Âm, sẽ giáo hoá cho tất cả chúng sanh. Con nguyện nương theo giáo pháp Ngài đã dạy mà tu hành”.

Di hê rị còn có nghĩa là “Y giáo phụng hành”. Nương theo lời dạy của Bồ-tát Quán Thế Âm cũng như Quán Thế Âm của tự tâm để thực sự tu trì.


Thiên-Thần Ma-Hê-Thủ-La.


Đây là Ma-Hê-Thủ-La Thiên-Thần suất lãnh thiên-binh sắc xanh. Di hê rị , Bậc thuận Giáo-tâm.


Tam thập Tam thiên chúng Thần-binh

Linh văn Mật ngữ lệnh phụng hành

Thưởng thiện Phạt ác hộ chánh giáo

Thế giới Hàm an khánh thăng bình.



23. Ma ha bồ-đề tát đỏa 


Dõng mãnh Đại-đạo-tâm


Ma ha có nghĩa là “đại” là to lớn.

Bồ-đề có nghĩa là “giác đạo”, là giác ngộ được đạo lý chân chính.

Tát đoả. Hán dịch là “đại dũng mãnh giả”. Câu này có nghĩa chư vị Bồ-tát là người phát tâm đại bồ-đề rất dũng mãnh và phát tâm tu hạnh Bồ đề. Phát bồ đề tâm nghĩa là gieo trồng nhân giác ngộ, tu bồ-đề hạnh là vun trồng, tưới tẩm cho hạnh giống bồ-đề đã gieo được nảy mầm, rồi mới mong gặt được quả giác ngộ, tức là quả vị Vô thượng bồ-đề.

Đây là ý nghĩa của câu chú Ma ha Bồ đề tát đoả. Câu chú này thuyết minh về công hạnh trang nghiêm viên mãn của chư vị Bồ-tát là do định huệ song tu. Khi Định đã lắng trong thì Huệ cũng được chiếu sáng. Khi Huệ đã viên mãn, thì Định viên dung. Vì Bồ-tát Quán Thế Âm đã đạt được định lực viên mãn, nên xuất sinh trí huệ sáng suốt. Vì Bồ-tát đã đạt được trí huệ viên mãn, nên Ngài mới đạt được định lực lắng trong. Không có Định thì chẳng có Huệ và không có Huệ thì chẳng đạt được Định. Nên gọi định huệ không hai là vậy.

Do nhờ tu tập vô số công hạnh mà Bồ-tát được trang nghiêm thân tướng nên chư vị không rời bỏ một pháp nào dù nhỏ bé hoặc vô cùng vi tế. Dù một việc thiện nhỏ nhất, cho đến lớn nhất, chư vị Bồ-tát đều hoàn tất chu đáo. Nên kinh có dạy”

“Chớ khinh việc thiện nhỏ mà không làm

Chớ xem thường việc ác nhỏ mà không tránh”.

Các vị Bồ-tát thường siêng năng làm các điều thiện và dứt khoát từ bỏ các việc ác, chư vị phát bồ-đề tâm và đạt được quả vị giác ngộ Vô thượng bồ-đề. Chư vị trang nghiêm pháp thân bằng vô số công hạnh. Chư vị phát đại bi tâm, thực hành đại pháp vô duyên từ tuỳ theo tâm lượng của chúng sinh mà làm Phật sự. Nhưng chính các vị Bồ-tát, tự bản tánh và bản thể của các Ngài không hề gợn một mảy may tướng trạng của chúng sinh tâm. Các Ngài tự thấy mình và toàn thể chúng sinh có đồng một thể tánh, không hề phân hai. Các Ngài không chỉ chịu khổ cho riêng mình, mà ước nguyện giúp cho chúng sinh thoát khỏi mọi khổ luỵ. Dù các Ngài chuyển hoá tất cả mọi sự thống khổ cho chúng sinh mà không hề dính mắc chút nào vào việc mình có độ thoát cho chúng sinh. Các Ngài không bao giờ tự cho rằng:

“Tôi đã cứu độ cho anh rồi, nay anh phải cám ơn tôi. Tôi đã giúp anh thoát khỏi mọi phiền não, anh phải tỏ ra biết ơn tôi”.

Chính vì chư vị Bồ-tát không có tâm niệm như vậy, nên các Ngài mới có thể ứng hiện ba mươi hai thân tướng, để kịp thời đáp ứng mọi tâm nguyện của mọi loài chúng sinh. Chẳng hạn như cần ứng hiện thân Phật để độ thoát chúng sinh, thì chư vị Bồ-tát liền ứng hiện thân Phật để giảng dạy giáo pháp cho chúng sinh khiến họ được giải thoát. Nếu cần thiết hiện thân Bích Chi Phật, thì các Ngài liền ứng hiện thân Bích Chi Phật để giáo hoá chúng sinh, giúp họ được giải thoát. Cũng như vậy, các Ngài có thể ứng hiện thân A la hán, vua chúa... để giúp cho chúng sinh được độ thoát. Chư vị Bồ-tát có khả năng hóa hiện thành ba mươi hai ứng hóa thân để cứu độ các loài chúng sinh. Các Ngài cũng có được mười bốn pháp vô uý và bốn pháp bất khả tư nghì. Đó là bốn loại thần thông diệu dụng không thể nghĩ bàn. Các Ngài đã chứng đạt được quả vị chân thật viên thông, đã thành tựu quả vị Vô thượng bồ-đề. Đó là sự thành tựu quả vị của Bồ-tát Quán Thế Âm.


Bổn-thân ngài Đại-Bồ-tát.


Đại-Bồ-tát là ý nghĩa tâm chơn-thật không tạp loạn, thế mới gọi là “Tát-đỏa”. Ma ha bồ-đề tát đỏa,  Bậc dõng mãnh Đại-đạo-tâm.

 

Kiên thật Chơn tâm cầu giai ứng

Quảng đại Linh cảm vô bất thông

Từ bi Phổ độ Ba-la-mật

Hàng phục Chư ma chánh pháp hưng.



24. Tát bà tát bà


Tát bà tát bà. Hán dịch là “nhất thiết lợi lạc”. Câu chú này bao hàm cả Bảo ấn thủ nhãn ấn pháp, nghĩa là mang đến mọi thứ lợi lạc cho mọi người.

Bằng cách hành trì ấn pháp này, Quý vị có khả năng đem sự an vui lợi lạc đến cho hết thảy mọi loài chúng sinh. Thiên vương, Diêm vương, Quỷ vương đều chấp hành theo người trì tụng ấn chú này. Quý vị bảo họ: “Hãy thả tội nhân này ra” thì Diêm vương liền tức khắc thả ra liền. Vì sao vậy? Vì Quý vị đã có được Bảo ấn này.

Bảo ấn này cũng như ấn của vua vậy. Trên chiếu thư có ngọc ấn của vua thì khắp thiên hạ, ai có trách nhiệm gì cũng phải tuân theo chiếu thư mà thi hành, không ai dám chống lại. Với Bảo ấn, Quý vị có thể làm lợi lạc, an vui cho mọi loài chúng sinh. Quý vị có thể chỉ bảo cho họ biết sự lợi lạc để phát nguyện hành trì. Và sẽ đạt được sự an lành. Vì vậy nên gọi là “Nhất thiết lợi lạc”.

Người Trung Hoa đều biết có một vị Tiên, biết sử dụng một ấn chú gọi là “Phiên thiên ấn”. Người con của Quảng Thành vương cũng có một phiên thiên ấn. Chính là ấn này vậy. Đạo Lão gọi là “Phiên thiên ấn”. Bồ-tát Quán Thế Âm gọi là “Bảo ấn”.

Nếu Quý vị dụng công hành trì thì nhất định sẽ thành tựu Bảo ấn này. Khi thành tựu rồi, nếu có người vừa mới chết hoặc sắp chết, Quý vị chỉ cần trì ấn này vào một tờ giấy, và viết vài dòng cho Diêm vương: “Hãy tha cho người này sống lại ngay. Hãy tha cho anh ta trở về dương gian”. Diêm vương không dám từ chối. Diệu dụng của Bảo ấn có thể giúp cho người chết sống lại. Nhưng để sử dụng được Bảo ấn này, trước hết Quý vị phải thành tựu công phu tu tập đã. Nếu công phu chưa thành tựu thì chẳng có kết quả gì.

Thế nào nghĩa là thành tựu công phu tu hành? Cũng giống như đi học. Trước hết, Quý vị phải vào tiểu học, rồi lên trung học, rồi thi vào đại học. Rồi cuối cùng có thể được học vị Tiến sĩ.

Tu tập để thành tựu Bảo ấn này cũng như đạt được học vị Tiến sĩ vậy. Nhưng tạm ví dụ vậy thôi, chứ Bảo ấn này không có gì so sánh được.

Tát bà tát bà nghĩa là “lợi lạc cho tất cả mọi loài chúng sinh”. Quý vị thấy sự diệu dụng vô biên đến như thế. Nên gọi ấn này là Bảo ấn. Nếu Quý vị muốn sử dụng được Bảo ấn này thì phải công phu tu trì qua cả bốn mươi hai thủ nhãn. Tát bà tát bà chỉ là một trong bốn mươi hai ấn pháp ấy mà thôi.

Có người nghe tôi giảng như vậy sẽ khỏi nghĩ rằng: “Ta sẽ tu tập Bảo ấn này ngay để bất kỳ lúc nào có người sắp chết, ta sẽ sử dụng ấn này, ra lệnh cho Diêm vương không được bắt người ấy chết”. Quý vị cứ thực hành, Quý vị có thể giúp người kia khỏi chết, nhưng đến khi Quý vị phải chết, thì chẳng có người nào giúp Quý vị thoát khỏi chết bằng Bảo ấn này cả.

Tôi đã có dịp sử dụng ấn này hai lần. Một lần ở Mãn Châu và một lần ở Hương Cảng. Lần ở Mãn Châu là trường hợp cứu một người sắp chết. Người này chắc chắn sẽ chết nếu tôi không sử dụng Bảo ấn này. Vào một chiều trời mưa ngày 18 tháng 4 âm lịch. Một người tên là Cao Đức Phúc đến chùa Tam Duyên, nơi tôi đang ngụ. Anh ta quỳ trước tượng Phật, cầm một cây dao bọc trong giấy báo, chuẩn bị sẵn sàng chặt tay để cúng dường chư Phật. Quý vị nghĩ sao? Anh ta khôn ngoan hay không? Dĩ nhiên là quá ngu dại. Tuy nhiên sự ngu dại của anh ta lại xuất phát từ lòng hiếu đạo. Quý vị biết không. Mẹ anh ta bị bệnh trầm trọng gần chết. Do vì thường ngày mẹ anh ta nghiện thuốc phiện nặng. Nhưng bệnh bà quá nặng đến mức hút thuốc phiện cũng không được nữa. Bà ta nằm co quắp, chẳng ăn uống gì. Đầu lưỡi đã trở sang màu đen, môi miệng nứt nẻ. Bác sĩ Đông, Tây y đều bó tay, không hy vọng gì còn chữa trị được. Nhưng người con trai của bà nguyện: “Lạy Bồ-tát rất linh cảm, con nguyện đến chùa Tam Duyên chặt tay cúng dường chư Phật. Với lòng chí thành, con nguyện cho mẹ con được lành bệnh”.

Ngay khi chàng trai sắp chặt tay, có người nắm tay anh ta lôi lại đằng sau rồi nói: “Anh làm gì thế, anh không được vào đây mà tự sát”.

Anh ta trả lời:

- “Tôi chỉ chặt tay cúng dường chư Phật, cầu nguyện cho mẹ tôi được lành bệnh. Ông đừng cản tôi”.

Chàng trai chống lại, nhưng người kia không để cho anh ta chặt tay nên liền cho người báo cho Hoà thượng trụ trì biết. Hoà thượng cũng không biết phải làm sao, Ngài liền phái cư sĩ Lý Cảnh Hoa, người hộ pháp đắc lực của chùa đi tìm tôi.

Dù lúc ấy, tôi vẫn còn là chú Sa-di. Tôi được giao nhiệm vụ như là tri sự ở chùa Tam Duyên, chỉ dưới Hoà thượng trụ trì. Tôi chỉ là một chú tiểu, nhưng không giống như những chú tiểu cùng ăn chung nồi, cùng ngủ chung chiếu. Tôi thức dậy trước mọi người và ngủ sau tất cả mọi người. Tôi làm những việc mà không ai muốn làm và chỉ ăn một ngày một bữa trưa, không ăn phi thời. Tu tập chính là sửa đổi những sai lầm vi tế. Nếu khi chưa chuyển hoá được những lỗi lầm nhỏ nhặt ấy, có nghĩa là mình còn thiếu năng lực trong công phu.

Hoà thượng trụ trì giao việc đó cho tôi. Tôi liền đến bạch Hoà thượng:

- “Phật tử đến cầu Hoà thượng cứu giúp. Nay Hoà thượng lại giao cho con. Hoà thượng làm cho con thật khó xử”.

Hoà thượng trụ trì bảo:

- “Con hãy đem lòng từ bi mà cứu giúp họ”.

Hoà thượng dạy những lời rất chí lý. Tôi vốn chẳng ngại khó nhọc, nên khi nghe những lời đó, tôi rất phấn khích, tôi thưa:

- Bạch Hoà thượng, con sẽ đi.

Tôi bảo chàng trai:

- Anh hãy về nhà trước, tôi sẽ theo sau.

Anh ta nói:

- Nhưng thầy chưa biết nhà con?

Tôi đáp:

- Đừng bận tâm về tôi. Hãy cứ về nhà trước.

Lúc ấy là vào khoảng năm giờ chiều, mặt trời vừa xế bóng. Anh ta đi theo đường lộ chính, còn tôi đi theo đường mòn. Nhà anh ta cách chùa chừng sáu dặm. Anh ta quá đỗi sửng sốt khi về đến nơi, anh ta đã thấy tôi ngồi đợi anh trong nhà.

- Bạch thầy, sao mà thầy biết nhà con mà đến sớm thế?

Tôi nói:

- Có lẽ anh vừa đi vừa chơi, hoặc anh ham xem bóng đá hay truyền hình gì đó.

Cậu ta đáp:

- Thưa không, con cố hết sức đi thật nhanh để về nhà.

Tôi nói:

- Có lẽ xe đạp của anh đi không được nhanh như xe tôi, nên tôi đến trước.

Ngay khi vào thăm bà mẹ, tôi thấy không thể nào cứu sống bà ta được. Nhưng tôi vẫn quyết định cố gắng hết sức để cứu bà. Tôi dùng Bảo ấn viết mấy dòng:

“Chàng trai này có tâm nguyện rất trí thành, nguyện chặt tay cúng dường chư Phật để cứu mẹ sống. Tôi đã ngăn cản anh ta chặt tay. Bằng mọi cách, xin cho mẹ anh ta được sống”.

Tôi gửi Bảo ấn đi, sáng hôm sau bà ta vốn đã nằm bất động suốt bảy, tám ngày nay, chợt ngồi dậy gọi con trai bằng tên tục.

- Phúc ơi... Phúc ờ... mẹ đói quá, cho mẹ tí cháo...

Chàng trai suốt bảy, tám ngày nay không nghe mẹ gọi. Nay cực kỳ vui sướng. Anh ta chạy đến bên giường nói với mẹ:

- Mẹ ơi, mẹ đã nằm liệt giường suốt tám ngày nay. Nay mẹ khoẻ rồi chứ?

Bà ta trả lời:

- Chẳng biết bao lâu nữa. Mẹ bị rượt chạy trong một cái hang tối đen thăm thẳm không có ánh sáng mặt trời, mặt trăng ánh sao hay đèn đuốc gì cả. Mẹ chạy và cứ chạy hết ngày này qua ngày khác để tìm đường về nhà mình. Mẹ có kêu, nhưng chẳng ai nghe. Cho đến đêm hôm qua, mẹ mới gặp một vị sư khổ hạnh mang y cà sa đã mòn cũ, vị này đã dẫn mẹ về nhà... Con cho mẹ ăn tí cháo loãng để cho đỡ đói.

Người con nghe mẹ nói đến vị sư, liền hỏi:

- Nhà sư mẹ gặp dung mạo như thế nào?

Bà đáp:

- Ngài rất cao. Nếu mẹ được gặp lại, mẹ sẽ nhận ra ngay.

Lúc đó tôi đang nghỉ trên giường. Anh ta liền đến bên tôi, chỉ cho mẹ và hỏi:

- Có phải vị sư này không?

Bà nhìn tôi chăm chú rồi kêu lên:

- Đúng rồi, chính thầy là người đã đưa mẹ về nhà.

Lúc đó, toàn gia quyến chừng mười người, gồm cả già trẻ, đều quỳ xuống trước mặt tôi thưa:

- Bạch Thầy, Thầy đã cứu mẹ con sống lại. Nay toàn gia đình chúng con cầu xin được quy y thọ giới với Thầy. Bất luận nhà chùa có việc gì, con nguyện đem hết sức mình xin làm công quả, và tuân theo lời chỉ dạy của Thầy để tu hành.

Về sau, dân cả làng này đều đến chùa xin quy y và cầu xin tôi chữa bệnh cho họ. Tôi bảo:

- Tôi chỉ có phép chữa bệnh bằng cách đánh đòn. Quý vị có chịu thì tôi chữa.

Họ đồng ý và tôi phải chữa. Có nghĩa là bắt người bệnh nằm xuống, đánh một người ba hèo bằng cái chổi tre. Đánh xong, tôi hỏi:

- Đã hết bệnh chưa?
Thật là ngạc nhiên. Họ lành bệnh thật!

Đó là một chuyện phiền phức xảy ra ở Mãn Châu. Lần thứ 2 tôi dùng Bảo ấn này là ở Hương Cảng. Khi bố của cô Madalena Lew 79 tuổi bị bệnh. Các vị bói toán đều bảo rằng ông ta chắc chắn sẽ qua đời trong năm nay. Ông ta đến gặp tôi xin quy y Tam Bảo để cầu nguyện gia hộ cho ông được sống thêm ít năm nữa.

Ông thưa:

- Bạch Thầy. Xin Thầy giúp cho con được sống thêm một thời gian nữa.

Tôi bảo:

- Thế là ông chưa muốn chết. Tôi sẽ giúp cho ông sống thêm 12 năm nữa? Được chưa?

Ông rất mừng vội đáp:

- Thưa vâng, được như thế thật là đại phúc.

Rồi tôi chú nguyện cho ông ta và ông ta được sống thêm 12 năm nữa.

Tuy nhiên, Quý vị không nên dùng ấn pháp này để giúp cho người ta khỏi chết hoặc là cứu họ sống lại khi họ đã chết rồi. Nếu Quý vị làm như vậy, Quý vị trở nên đối đầu với Diêm vương. Lúc ấy Diêm vương sẽ nói:

- Được rồi. Thầy đã giúp cho người ta khỏi chết, nay Thầy phải thế mạng.

Đến khi Quý vị gặp cơn vô thường; chẳng có ai dùng Bảo ấn này để giúp được cả. Nếu Quý vị nghĩ rằng mình có thể sử dụng Bảo ấn để cứu mình khỏi chết là Quý vị lầm. Diệu dụng của ấn pháp cũng giống như lưỡi dao, tự nó không thể cắt đứt được chuôi dao của chính nó. Nên khi Quý vị gặp bước đường cùng, thì cũng giống như chuyện vị Bồ-tát bằng đất nung:

Bồ Tát bằng đất nung đi qua biển.
Khó lòng giữ thân được vẹn toàn.

Vậy nên nếu Quý vị dù đã thông thạo trong khi sử dụng ấn pháp này, cũng phải công phu hành trì thêm. Vì lý do này mà tôi ít để ý đến việc riêng của người khác nữa.


Bổn-thân ngài Hương-Tích Bồ-tát.


Đây là Hương-Tích Bồ-tát áp lãnh Quỷ-binh ở năm phương để làm kẻ thị tùng, hàng tung không thể nghĩ bàn. Tát bà tát bàĐấng hiện Bảo-ấn-thủ-nhãn cho tất cả sự lợi vui.

 

Hương-Tích Bồ-tát đại uy thần

Thanh hoàng xích bạch hắc quỷ binh

Phục lao chấp dịch thính giáo hóa

Cảm ứng đạo giao cứu quần sanh.



25. Ma ra ma ra 


Hai câu chú này, Hán dịch là “tăng trưởng”. Cũng có nghĩa là “như ý” hoặc “tuỳ ý”. Đó là công năng của Như ý Châu thủ nhãn, làm tăng trưởng phước huệ, làm cho mọi việc đều được tốt lành như ý.

“Như ý” nghĩa là tuỳ thuận với tâm nguyện mà được đáp ứng.

Quý vị có thấy lợi ích vô biên của ấn pháp này không? Vì vậy nên công năng ấn pháp này là thứ nhất trong bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp. Diệu dụng của Như ý Châu thủ nhãn vượt ngoài sự diễn tả bằng ngôn ngữ.

Nếu Quý vị muốn giàu có, hãy hành trì theo thủ nhãn ấn pháp này. Một khi đã thành tựu rồi, thì Quý vị sẽ có được mọi thứ và không còn bận tâm vì nghèo khổ nữa. Quý vị luôn luôn giàu có và được vô lượng phước lạc.


Ngài Bạch-Y Bồ-tát.

 

Đây là Bạch-Y Bồ-tát tay cầm cây Như-Ý (thuộc về Phật-ngữ). Ma ra ma raĐấng hiện Như-ý-châu-thủ-nhãn, tăng trưởng tất cả sự vừa ý.

 

Hỗ tương miễn lệ hỗ tinh tấn

Đồng tu thiện pháp tục tâm ấn

Tha nhật thành tựu bồ đề quả

Long Hoa hội thượng khánh hoan hân.



26. Ma hê ma hê rị đà dựng

 

Ma hê ma hê. Hán dịch là “Vô ngôn cực ý”

“Vô ngôn” nghĩa là không cần phải nói nữa.

“Cực ý” có nghĩa là ý niệm kia đã đạt đến chỗ tối thượng, đã đạt chỗ vi diệu rồi.

Ma hê ma hê cũng còn có thể dịch là “tự tại”. Tự tại như Đại Phạm Thiên Vương: không buồn, không phiền, không lo, không giận. Suốt ngày đều được tự chủ và an vui.

Đây là “Ngũ sắc vân thủ nhãn”. Khi biết ấn này, sẽ làm lưu xuất ra mây lành ngũ sắc, và hành giả sẽ đạt được năng lực tự tại phi thường. Diệu dụng và năng lực tự tại của ấn pháp này thực là vô lượng vô biên.


Rị đà dựng “Thanh Liên Hoa thủ nhãn”. Có nghĩa là “Liên hoa tâm”. Khi Quý vị hành trì ấn pháp này thành tựu, sẽ được mùi hương hoa sen xanh toả ra, và được mười phương chư Phật tán thán. Sự vi diệu thật khó có thể nghĩ bàn. Đúng là:

Pháp Phật cao siêu thật nhiệm mầu
Trăm ngàn ức kiếp khó tìm cầu!


Bổn-thân đức Phật A-Di-Đà.

 

Đây là Bản-thân lộ tướng rất thung dung của Phật A-Di-Đà tóc bạc. Ma hê ma hê rị đà dựng, Xin nương bậc Đại-tự-tại hiện Ngũ-sắc-vân-thủ-nhãn; bậc Liên-hoa-tâm hiện Thanh-liên-thủ-nhãn.

 

Ứng cơ thị hiện vô lượng thân

Đại tiểu quyền thật hiển uy thần

Kim cang bất hoại thường tự tại

Thiên nhãn diêu quán thiên nhĩ văn.



27. Cu lô cu lô kiết mông 


Cu lô cu lô. Hán dịch là “tác pháp”, hoặc dịch là “tác dụng trang nghiêm”, lại còn có nghĩa là “xuy loa giải giới”. Đây chính là Bảo loa thủ nhãn ấn pháp.

Nay chúng ta đang sống trong thời mạt pháp. Nhiều người nghĩ rằng chỉ cần trì tụng chú Đại Bi là khế hợp với chân tinh thần Phật pháp rồi, nhưng thực ra không phải thế. Chú Đại Bi là gọi thay cho bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp và diệu dụng của chú Đại Bi là diệu dụng của bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp, đó chính là toàn thể của chú Đại Bi. Nếu Quý vị chỉ biết trì niệm chú Đại Bi mà không hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp thì như người có tay mà không có chân, nên không thể đi được. Mặt khác, nếu Quý vị chỉ biết hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp mà không trì niệm chú Đại Bi thì cũng như người có chân mà không có tay, không làm gì được cả. Cũng vô dụng mà thôi. Vậy nên để liễu triệt chú Đại Bi, trước hết Quý vị phải thông đạt bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp rồi phải trì tụng chú Đại Bi nữa, mới được gọi là người thành tựu rốt ráo diệu pháp này của chư Phật.

Không phải chỉ vừa mới nghe pháp sư giảng về chú Đại Bi xong rồi liền nói:

- “À! Tôi đã hiểu được câu chú đó nghĩa là gì rồi”.

Hiểu như thế cũng chẳng ích lợi gì cả. Cũng giống như người có thân thể nhưng chẳng có tay chân gì cả. Quý vị đã có đủ cả thân thể, tay chân, phải giúp cho chúng hoạt động phối hợp với nhau mới làm nên phước đức được.

Bảo loa thủ nhãn ấn pháp là dùng để tác pháp khi quý vị kiến lập đạo tràng, quý vị nên dùng Bảo loa ấn pháp này. Khi quý vị tác pháp này thì những âm thanh vang lên tận cõi trời, thấu tận địa ngục. Khắp cõi nhân gian, và khắp mọi nơi đều có ảnh hưởng. Bất kỳ mọi nơi nào nghe đến âm thanh này đều ở trong sự điều khiển của người trì ấn pháp. Các loài yêu ma quỷ quái đều phải tuân phục, không thể xâm hại. Đây còn gọi là sự kiết giới. 

Ấn pháp này còn gọi là “tác dụng trang nghiêm”. Có nghĩa là dùng cơn lốc quang minh tâm lực của Bảo loa ấn pháp sẽ tạo nên một pháp âm vi diệu, khiến cho đất bằng hoá thành vàng ròng, đều được trang nghiêm bằng bẩy thứ châu báu. Thật là vi diệu khó thể nghĩ bàn. Quý vị Phật tử đang tu học Phật Pháp nên biết rằng trong 300 năm trở lại đây, không có ai hành trì được bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp và cũng chẳng có ai thông hiểu được các ấn pháp này.

Nay chúng ta đã hiểu được chú Đại Bi, chúng ta nên chí thành và phát tâm kiên cố hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp này. Rồi sẽ có được diệu dụng.


Kiết mông là tiếng Phạn, vốn là ngôn ngữ của Đại phạm thiên, chứ không phải là ngôn ngữ của ấn Độ, nhưng văn pháp ngôn ngữ ấn Độ cũng căn cứ trên ngôn ngữ của Đại phạm thiên.

Kiết mông là tiếng Phạn. Hán dịch là “biện sự”, cũng dịch là “công đức”. Có nghĩa là làm tất cả mọi việc có công đức lợi lạc cho mọi người. Làm việc lợi lạc công đức cho mọi người cũng chính là tạo công đức cho chính mình. Bồ-tát thực hành hạnh tự lợi và lợi tha, tự giác ngộ giải thoát cho mình và giác ngộ giải thoát cho người khác.

Câu chú này nói đến sự thực hành lục độ và vạn hạnh. Đó chính là Bạch Liên Hoa thủ nhãn ấn pháp. Hãy tưởng tượng Quý vị đang cầm trong tay đoá hoa sen trắng. Tay Quý vị cầm cành hoa sen và miệng trì niệm chú Kiết mông Kiết mông ...

Không những Quý vị trì tụng Thần-chú mà còn hành trì Chơn-ngôn. Khi trì tụng cả hai pháp này, Quý vị mới có thể tạo nên mọi công đức. Khi Quý vị trì tụng chú Đại Bi, đồng thời cũng thông hiểu được cách hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp thì Quý vị mới có thể thành tựu lục độ vạn hạnh. Diệu dụng bất khả tư nghì, không bao giờ nói hết được. Nếu có thể nói được chỗ nhiệm mầu ấy thì nó phải có ngần mé. Mà những điều mầu nhiệm thì không có hạn lượng, không có chỗ khởi đầu và kết thúc. Với sự trì niệm Kiết mông, Quý vị có thể thành tựu được vô lượng công đức. Trong nhiều đời sau, Quý vị mãi mãi được trang nghiêm bởi hương thơm của hoa sen trắng và luôn luôn được hộ trì.

Sự vi diệu, mầu nhiệm của chú Đại Bi dù có tán thán cũng không bao giờ hết, không bao giờ cùng tận.


Bổn-thân ngài Không-Thân Bồ-tát.

 

Đây là Không-Thân Bồ-tát Thiên-đại-tướng-quân suất lãnh hai mươi vạn ức thiên-binh. Cu lô cu lô kiết môngĐấng hiện Bảo-loa-thủ-nhãnBạch-liên-hoa-thủ-nhãn hay tác pháp thành tựu các sự việc.

 

Không thân không tâm không thế giới

Thiên đại tướng quân lãnh thiên binh

Tuần du chư phương sát thiện ác

Công thưởng quá phạt vô thác phân.



28. Độ lô độ lô phạt xà da đế


Độ lô độ lô. Hán dịch là “độ hải” nghĩa là vượt qua biển khổ sinh tử. Còn dịch nghĩa “minh tịnh”.

Khi đã vượt qua biển khổ sinh tử rồi, Quý vị sẽ đạt được trí tuệ sáng suốt, chứng nhập bản thể thanh tịnh, đến được bờ bên kia, tức thể nhập Niết Bàn. Từ trong bản thể sáng suốt thanh tịnh ấy, trí tuệ sẽ được lưu xuất, Quý vị sẽ hiểu rõ được tất cả mọi pháp môn, chắc chắn Quý vị sẽ chấm dứt được vòng sinh tử. Với đại định, tâm Quý vị hoàn toàn thanh tịnh. Đó là định lực, khi Quý vị có được định lực chân chánh thì có thể vãng sanh ở cõi tịnh độ tươi sáng, đó là thế giới Cực Lạc.

Đây là Nguyệt Tinh Ma Ni thủ nhãn ấn pháp, là diệu pháp Đà-la-ni do Bồ-tát Nguyệt Quang tuyên thuyết. Ấn pháp Nguyệt Tinh thủ nhãn này có công năng đưa mọi người đến chỗ sáng suốt và an lạc.


Phạt xà da đế là Bàng Bài thủ nhãn ấn pháp.

Phạt xà da đế. Hán dịch là “Quảng bác trang nghiêm”, còn có nghĩa là “Quảng đại”. Cũng dịch là “độ sinh tử”. Nếu Quý vị tu tập hành trì Bàng Bài thủ nhãn ấn pháp này thì Quý vị có thể vượt qua biển khổ sinh tử, có nghĩa là giải thoát. Nếu Quý vị không công phu hành trì ấn pháp Bàng Bài thủ nhãn này, thì không thể nào vượt thoát bể khổ sinh tử, đến bờ giải thoát, niết bàn được.


Bổn-thân ngài Nghiêm-Tuấn Bồ-tát.

 

Đây là Nghiêm-Tuấn Bồ-tát, áp lãnh man-binh Khổng-tước-vương. Độ lô độ lô phạt xà da đế, Đấng hiện Nguyệt-tinh-ma-ni-thủ-nhãn đã đến chỗ thanh tịnh hiện Bàng-bài-thủ-nhãn.

  

Man binh dũng mãnh chiến vô địch

Khổng tước hùng uy trấn quần si

Bồ tát hiệu lệnh tuần thiên hạ

Hộ thiện trừ ác độ chúng mê.



29. Ma ha phạt xà da đế 


Câu chú này có nghĩa là “Tối thắng, đại Đạo Pháp”.

Đạo là quảng đại, tối thắng và Pháp cũng quảng đại, tối thắng. Đạo Pháp là chân lý vượt lên trên tất cả mọi sự thù thắng nhất trên đời.

Đây là Bảo Kích thủ nhãn ấn pháp. Ấn pháp này có công năng hàng phục các loại thiên ma và ngoại đạo. Công năng của ấn pháp này rất lớn. Chẳng hạn ấn pháp này có thể bảo vệ quốc gia chống nạn ngoại xâm. Nếu quốc gia của Quý vị sắp bị xâm lăng, và nếu Quý vị hành trì ấn pháp này thì vô hình trung, quân giặc bắt buộc phải rút lui.


Ngài Đại-Lực Thiên-Tướng.

 

Đây là Đại-Lực Thiên-Tướng tay cầm Bảo-xử. Ma ha phạt xà da đế, Đấng đạo pháp rộng lớn tối thắng hiện Bảo-kích-thủ-nhãn.

 

Đại khổ đại lạc đại từ bi

Tu chư thiện pháp lực vô úy

Bảo xử hàng ma hộ hành giả

Tam tai bát nạn nhất thời thôi.



30. Đà ra đà ra


Tiếng Phạn rất khó hiểu. Ngay cả những ai đã học tiếng Phạn thông thạo rồi cũng khó có thể hiểu được mật chú và giảng giải rõ ràng được. Tôi chỉ nhờ hiểu một chút ít thần chú Đại Bi mà thôi.

Đà ra đà ra là Quân trì Thủ Nhãn Ấn Pháp. Trong Quân trì này chứa nước cam lồ. Bồ-tát Quán Thế Âm dùng cành dương liễu rưới nước cam lồ lên khắp chúng sanh trong sáu đường. Bất luận ai gặp nạn khổ hay bệnh tật gì, nếu được Bồ-tát Quán Thế Âm rưới nước cam lồ thì đều giải thoát khỏi tai nạn ấy.

Đà ra đà ra. Hán dịch là “Năng tổng trì ấn”, là tâm lượng của toàn chúng sinh. Chính là Bồ-tát Quán Thế Âm dùng Cam lồ thủ nhãn ấn pháp, Quân trì thủ nhãn ấn pháp và Dương chi thủ nhãn ấn pháp-tất cả ba ấn pháp ấy để rưới nước cam lồ lên toàn thể chúng sinh, cứu độ chúng sinh ra khỏi tam đồ lục đạo.


 

Ngài Quán-Thế-Âm Bồ-tát.

 

Đây là Quán-Thế-Âm Bồ-tát hiện thân trượng phu. Đà ra đà ra, Đấng hay tổng-trì các chú-ấn hiện Quân-trì-thủ-nhãn.

 

Hiện đại trượng phu thân kỳ đặc

Pháp tướng trang nghiêm ly chư quá

Dĩ đức cảm nhân tâm thành phục

Vọng chi nghiễm nhiên tức ôn hòa.



31. Địa rị ni 


Địa rị ni . Hán dịch rất nhiều nghĩa. Thứ nhất là “thậm dõng” nghĩa là dũng khí mãnh liệt. Cũng có nghĩa là “tịnh diệt hoặc khiết tịnh”.

“Thậm dũng” là dạng tướng động.
“Tịnh diệt” là dạng tĩnh.

Còn dịch là “Gia trì và thôi khai”.

- “Gia trì” có nghĩa là làm cho các ác pháp đều được chuyển hoá, hướng về phụng hành theo thiện pháp.

- “Thôi khai” là làm cho các nghiệp chướng, tai nạn của chúng sinh đều được tiêu trừ.

Đây là Cu thi thiết câu thủ nhãn ấn pháp. Gọi tắt là thiết câu ấn pháp, có công năng làm cho tất cả quỷ thần, thiên long bát bộ đến hộ trì cho hành giả. Nếu Quý vị công phu hành trì thành tựu thủ nhãn này, thì có thể bảo thiên long làm mưa và sẽ có mưa ngay, nếu hành giả cần có gió, họ sẽ làm ra gió ngay, khi hành giả muốn mưa gió đừng hoành hành thế gian nữa, mưa gió sẽ hết ngay.

Quý vị sẽ nói: “Tôi không tin như vậy”. Đúng vậy! Đó chính là lý do mà tôi muốn nói cho Quý vị nghe, tất cả chỉ là vì Quý vị không tin. Không có niềm tin và không ở trong cảnh giới này thì khó lòng hiểu nổi.

Nếu muốn, Quý vị có thể hỏi những người vừa mới từ Đài Loan trở về ngày hôm nay về cơn mưa ở Đài Loan. Khi tôi nói chuyện với Phật tử ở Đài Loan qua điện thoại, họ cho biết trời đang mưa và rất lạnh. Họ mong muốn thời tiết được ấm áp và bớt mưa. Tôi bảo họ hãy yên tâm, chuyện đó sẽ xảy ra. Họ lại thắc mắc:

- Sư phụ có thể khiến trời hết mưa hay sao?

Tôi chỉ nói vắn tắt:

- Quý Phật tử hãy đợi xem trời có tạnh mưa hay không?

Ngay khi tôi vừa cúp điện thoại, thì trời bắt đầu tạnh ráo. Họ đều cho đó là chuyện lạ kỳ. (Những ai đã đến Đài Loan năm 1969 để dự giới đàn, đều có thể chứng kiến chuyện này. Trời mưa dầm ở Keelong Đài Loan ít nhất cũng là 48 ngày, nhiều nhất là 53 ngày. Chúng tôi đang ở Đài Loan để thọ giới. Cả tự viện không còn chất đốt, một khi củi đã bị ướt rồi, thì không còn cách nào để sưởi cho khô lại được. Tuy nhiên,vào sáng ngày 18/4 như đã nói ở trên, đúng ngay lúc chúng tôi vừa chấm dứt cuộc điện đàm thì mặt trời vừa hiện ra, bầu trời trở nên sáng trong và khí trời trở nên ấm áp liền. Chú thích của người dịch từ Hoa văn sang Anh Ngữ).

Thực ra, đó chẳng phải là gì khác, chính là năng lực của thiết câu thủ nhãn ấn pháp. Quý vị chỉ cần kiết ấn và gọi: “Thiên long, đừng làm mưa nữa!” thì trời sẽ dứt mưa ngay. Loài rồng sẽ chấp hành theo lệnh của Quý vị và chỉ khi Quý vị đã thành tựu ấn pháp này và đã thông thạo thiết câu thủ nhãn. Rồng phun mưa sẽ tuân theo ấn pháp này và đình chỉ việc làm mưa liền.

Quý vị sẽ nghĩ là tôi nói đùa nhưng đúng là như vậy. Bây giờ, tôi đang giảng kinh cho Quý vị nghe và tôi đang nói với Quý vị bằng chân ngữ. Đây không phải là chuyện nói đùa.


Ngài Sư-Tử Vương-Bình

Quán-Thế-Âm Bồ-tát hiện thân.

 

Đây là Bình-sư-tử-vương xét nghiệm người trì-chú. Địa rị ni, Đấng  rất dõng mãnh hiện Thiết-câu-thủ-nhãn.


Sư-Tử Vương-Binh nghiệm tụng độc

Thiên biến vạn biến vô lượng số

Đa đa ích thiện công viên mãn

Thành tựu bồ tát thắng quả thù.




32. Thất Phật ra da


Mỗi khi Quý vị niệm Thất Phật ra da thì toàn pháp giới này có một luồng chớp sáng phát ta. Cứ mỗi niệm Thất Phật ra da là có một luồng quang minh phóng ra bao trùm cả vũ trụ.

Thất Phật ra da được dịch là “phóng quang”. Còn dịch là “tự tại”. Phiên âm từ tiếng Phạn “ishvara” như trong chữ “Avalokiteshvara”. Ở đây có nghĩa là “Quán”, vì có quán chiếu thâm sâu rồi mới được “tự tại”. Nếu Quý vị không có sức quán chiếu thâm sâu, thì Quý vị sẽ không đạt được năng lực tự tại.

Quán chiếu nghĩa là hướng vào bên trong tự tâm mà công phu chứ không phải hướng ra ngoại cảnh bên ngoài. Nghĩa là hướng vào bên trong mà quán chiếu không ngừng. Hãy tự hỏi: “Ta có hiện hữu hay không?”. Ông chủ có hiện hữu trong chính tự thân Quý vị hay không? Quý vị có làm chủ được mình hay không? Mặt mũi xưa nay của ông chủ có hiện hữu hay không? Thường trụ chơn tâm thể tánh thanh tịnh có hiện hữu hay không? Nếu những cái đó đều hiện hữu, có nghĩa là Quý vị đạt được tự tại. Còn nếu không hiện hữu, có nghĩa là Quý vị không có được tự tại.

Sự phóng quang cũng mang ý nghĩa tự tại. Nếu Quý vị đạt được năng lực tự tại, thì Quý vị có thể phóng quang. Nếu chưa có được năng lực tự tại, thì không thể phóng quang được.

Thất Phật ra da cũng được dịch là “Hoả diệm quang”, cũng gọi là Hoả quang. Đó là lửa, nhưng không phải là lửa phát sinh từ tập khí phiền não, như Quý vị thường nói: “Tôi vừa nổi nóng như lửa”. Đó cũng không phải là lửa xuất phát từ sự sân hận, phẫn nộ, căm hờn của Quý vị, mà đó chính là lửa trí tuệ. Đó cũng chính là nước từ trí huệ tiết ra để dập tắt lửa vô minh. Trí huệ chân chính hiển lộ khi lửa vô minh bị dập tắt. Đó chính là Hoả Diệm Quang.

Khi Quý vị trì tụng Thất Phật ra da tức là Quý vị đang phóng quang. Nhưng trước tiên Quý vị phải có được năng lực tự tại. Không có năng lực tự tại thì Quý vị không thể nào phóng quang được. Hãy nhớ kỹ điều này.

Đây là Nhật Tinh Ma Ni thủ nhãn ấn pháp. Ấn pháp này có công năng chữa trị bệnh mắt mờ không thấy rõ. Dùng ấn pháp này khiến cho mắt được sáng lại.


Bổn-thân ngài Tích-Lịch Bồ-tát.

 

Đây là ngài Tích-Lịch Bồ-tát hàng phục các ma và quyến thuộc. Thất Phật ra da, Đấng có ánh sáng rực rỡ lớn hiện Nhật-tinh-thủ-nhãn.

 

Hàng phục chư ma chánh pháp hưng

Tích-Lịch thiểm điện quỷ thần kinh

Vũ trụ trừng thanh yêu phân tức

Huệ nhật cao chiếu khánh hòa bình.



33. Dá ra dá ra


Dá ra dá ra dịch nghĩa là “hành động”. Đó là hành động như quân đội thi hành một mệnh lệnh hành quân. Hành quân là một mệnh lệnh nếu Quý vị không tuân hành, có nghĩa là chống lệnh.

Đây là Bảo đạc thủ nhãn ấn pháp. Khi Quý vị rung chuông, âm thanh vang lên khắp không gian, thông cả thiên đàng, chấn động cả địa giới. Nếu Quý vị cần thực hiện việc gì, chỉ cần rung chuông lớn, các loài chư thiên, thiện thần, yêu ma quỷ quái đều tuân theo mệnh lệnh của Quý vị. Chẳng hạn như khi có động đất, Quý vị chỉ cần rung chuông lên rồi ra mệnh lệnh: “Quả đất không được rung lên như vậy”, trái đất trở về trạng thái yên bình ngay.

Bảo đạc thủ nhãn ấn pháp cực kỳ diệu dụng. Nếu Quý vị muốn hát với một âm điệu tuyệt vời, thì hãy công phu hành trì ấn pháp này. Khi công phu thành tựu rồi, tiếng hát của Quý vị trong suốt như tiếng đại hồng chung vang lên trong không gian.


Bổn-thân ngài Tồi-Toái Bồ-tát.

 

Đây là Bản-thân của Tồi-Toái Bồ-tát tay cầm Kim-luân. Dá ra dá ra, Đấng hay hành động hiện Bảo-đạc-thủ-nhãn.



Nộ mục dương mi nhiếp tà ma

Uy đức vô biên hộ chư Phật

Nhất thiết chúng sanh đắc an lạc

Bồ tát sự tất tiếu ha ha.



34. Mạ mạ phạt ma ra


Mạ mạ. Hán dịch là “ngã sở thọ trì”. Đó chính là một loại mệnh lệnh hành động. Có nghĩa là “mọi việc tôi làm bảo đảm chắc chắn phải được thành tựu”.

Mạ mạ là Bạch phất thủ nhãn ấn pháp.  Trung Hoa, các đạo sĩ và Tăng sĩ Phật giáo thường sử dụng phất trần, các vị cao tăng thường cầm phất trần khi đăng bảo toạ để thuyết pháp.

Bạch phất thủ nhãn ấn pháp có công năng trừ sạch mọi nghiệp chướng của thân, trừ được mọi chướng nạn và bệnh tật. Chỉ cần phất lên thân vài lần là có thể tiêu trừ mọi nghiệp chướng và chữa lành mọi ma chướng sinh ra bệnh tật.

Bạch phất thủ nhãn ấn pháp có rất nhiều công dụng, nhưng người biết cách dùng ấn pháp này lại rất ít. Tôi biết hiện nay có rất ít người sử dụng được ấn pháp này.

Năm người Tây phương đầu tiên vừa đi thọ giới Cụ túc ở Đài Loan đã trở về. Họ đã trở thành những vị Tỷ Khưu, Tỷ Khưu Ni chân chính. Họ vừa về đến phi trường vào lúc 4 giờ 30 chiều nay, chuyến bay 910 của hãng hàng không Trung Hoa. Ngày nay Phật giáo Giảng Đường đã có được nhiều xe hơi nên toàn thể Phật tử hộ pháp trong đạo tràng cũng như toàn thể Phật tử ở San Francisco-Cựu Kim Sơn-Hoa Kỳ-đều có thể ra phi trường để đón mừng các vị tân Tỷ Khưu.

Bình thường, tôi chẳng muốn đến phi trường nhưng trong chuyến bay ấy có chở về vài tượng Phật, nên tôi ra phi trường để nghênh đón tượng Phật chứ không phải để đón các đệ tử của tôi. Các đệ tử của tôi cũng không cần tôi đón, cũng chẳng cần đưa. Khi họ đi Đài Loan thọ giới, tôi đã nói với họ rằng:

“Khi mê thì thầy độ
Khi ngộ rồi tự độ”.

Nay họ phải tự độ chính họ, họ đã ra đi, nay lại trở về. Chắc chắn họ phải tự tìm ra con đường từ phi trường về chùa. Họ chẳng cần tôi phải chỉ dẫn: “Quẹo ở đó, đi theo đường này, đó là đường về chùa”.

Điều buồn cười nhất là khi họ viết thư báo cho tôi biết họ đã bỏ quên một thùng Kinh. Tôi bảo:

“Bỏ quên kinh chẳng có gì quan trọng. Điều quan trọng chính là không có ai trong các con bị bỏ quên”. Năm người đi thọ giới và nay năm người đều đã trở về. Sao vậy? Vì tôi đã mua bảo hiểm ở chư vị Bồ-tát, nên để cho bất kỳ ai bị bỏ sót lại là điều không thể chấp nhận được. Nếu một người không về, tức là chư vị Bồ-tát không thực hiện đúng hợp đồng. Thế nên tôi rất tin tưởng rằng tất cả các giới tử sẽ trở về và dịch vụ bảo hiểm của chư vị Bồ-tát không cần phải thanh toán hợp đồng.

Quý vị nên nhớ một điều. Những người thọ giới Cụ túc trở về hôm nay là những vị Tổ khai sơn của Phật giáo Mỹ quốc. Đừng xem việc này đơn giản. Điều này rất chân thực. Đừng như những kẻ tự cho mình là Phật tử, chỉ nằm ở nhà mà thích gọi mình là “Tổ tại gia”. Thực vậy, cách đây vài hôm, có một vị Tổ sư tự phong đến đây và muốn hát tặng cho tôi nghe. Tôi giễu cợt ông ta: “Thật chán khi nghe ông hát”. Ông ta chỉ bật lên:

 “!” Một tiếng rồi bỏ đi.


Phạt ma ra là “Hàng ma kim cang hộ pháp”, tay cầm bánh xe bằng vàng. Vị hộ pháp này có thể hoá thân lớn như núi Tu Di.

Phạt ma ra. Hán dịch là “Tối Thắng Ly Cấu”, có nghĩa đó là pháp thù thắng nhất, xa lìa tất cả mọi cấu nhiễm ở thế gian. Còn có nghĩa là “vô tỷ như ý”. Vì không có gì có thể sánh với pháp này và tuỳ tâm nguyện của mình mà mọi điều xảy ra như ý muốn.

Đây là Hoá cung Điện thủ nhãn ấn pháp. Nếu Quý vị hành trì được ấn pháp này thành tựu, thì đời đời Quý vị sẽ được sống cùng một trụ xứ với đức Phật (như trong một cung điện), không còn phải thọ sinh vào các loài thai sinh, noãn sinh và thấp sinh nữa. Công dụng của sự thành tựu ấn pháp này là đời đời được sống cùng chư Phật.


Bổn-thân ngài Đại-Hàng-Ma Kim-Cang.

 

Đây là Bản-thân của Đại-Hàng-Ma Kim-Cang  tay cầm Kim-luân. Mạ mạ phạt ma raXin nương nhờ đấng tối-thắng-cấu của con hiện Bạch-phất-thủ-nhãnCung-điện-thủ-nhãn.

 

Chiết phục ma ngoại hiện thần uy

Đại từ cứu thế pháp vương khôi

Bình đẳng phổ tế ba la mật

Hữu duyên chúng sanh hoạch yết đế.



35. Mục đế lệ


Mục đế lệDương chi thủ nhãn ấn pháp của đức Phật. Đó là nhánh cây mà Quý vị thường thấy Bồ-tát Quán Thế Âm cầm ở một tay, còn tay kia Bồ-tát cầm một Tịnh bình, cũng gọi là Hồ bình. 


Hồ-bình cam lộ nhuận quần manh

Cô mộc phùng xuân mậu hựu xương

Vạn bệnh kham trừ hiển đại dụng

Sinh sinh hóa hóa diệu vô phương.


Nhành dương này được Bồ-tát nhúng vào Tịnh bình rồi rưới lên cho tất cả mọi chúng sinh bị đau khổ. Nước này không như nước thường. Đó là nước cam lồ. Chúng sinh nào được nước này tưới nhuận sẽ có nhiều lợi lạc. Nước cam lồ có thể giúp cho mọi chúng sinh thoát khỏi khổ luỵ đói khát và bản tâm đạt được thanh lương.

Mục đế lệ còn dịch nghĩa là “giải thoát”. Đó là giải thoát khỏi mọi khổ nạn, bệnh tật và chướng ngại. Nên Bồ-tát Quán Thế Âm thường dùng Dương chi thủ nhãn ấn pháp này để giúp giải thoát cho chúng sinh khỏi mọi bệnh tật, khổ nạn và những điều bất như ý. Bề ngoài, chú này dường như không có gì quan trọng lắm, nhưng một khi Quý vị công phu hành trì ấn pháp này thành tựu rồi, thì không những Quý vị có thể giúp giải thoát cho chúng sinh khỏi bệnh tật và khổ nạn mà còn có thể hàng phục cả thiên ma ngoại đạo. Khi những thiên ma ngoại đạo được thấm nhuận nước cành dương này, họ tự nhiên hồi tâm hướng thiện, thực hành theo chánh pháp. Do vậy, Dương chi thủ nhãn có diệu dụng vô cùng vô tận, không thể nghĩ bàn.

Giọt nước cam lồ từ bàn tay Bồ-tát Quán Thế Âm không những chỉ giúp cho Quý vị thoát khỏi mọi bệnh tật, khổ nạn mà còn có một diệu dụng khác, khi một người sắp chết, nếu có phước duyên, được Bồ-tát Quán Thế Âm rảy nước cam lồ thì có thể sống lại. Tất cả các loài cây cỏ thảo mộc đã khô héo nếu được nước cam lồ tưới xuống cũng được hồi sinh. Cây cỏ là loài vô tình, mà khi được nước cam lồ tưới tẩm còn được nảy mầm, đơm hoa, kết trái như vậy nên chúng sinh là loài hữu tình sẽ được lợi lạc biết bao. Đó là diệu dụng của Dương chi thủ nhãn ấn pháp.


Các đức Phật chắp tay nghe tụng chơn-ngôn.

 

Đây là chư Phật chắp tay nghe tụng chơn-ngôn. Mục đế lệ, Đấng hiện Dương-chi-thủ-nhãn  khiến được giải thoát

 

Bế mục trừng tâm tụng chân ngôn

Nhất niệm bất sanh diệu thông huyền

Tam muội gia trì trí quang hiện

Chư Phật xưng tán thiện nữ nam.


 

36. Y hê di hê

 

Y hê di hê là Độc lâu trượng thủ nhãn ấn pháp. Hán dịch là “thuận giáo”.

Nghĩa là một khi Quý vị nhờ ai làm việc gì đó, họ đều ưng thuận. Khi Quý vị dùng chánh pháp để giáo hoá, họ đều vâng lời. Câu chú này còn dịch là “tâm đáo”. Nghĩa là trong tâm hành giả ước nguyện điều gì, nhờ năng lực của chú này đều được thành tựu. Câu chú này khiến cho Ma-hê-thủ-la vương, là một Thiên ma ngoại đạo thường cho rằng mình là vĩ đại nhất, cũng phải cung kính chắp tay đến nghe lời chỉ giáo khi nghe có người trì tụng thần chú này, không dám trái nghịch.

Thế nên khi Quý vị trì niệm câu Y hê di hê, thì Ma-hê-thủ-la Thiên vương liền đến, bất kỳ tâm nguyện của hành giả như thế nào, vị này liền thi hành ngay, đáp ứng đúng như sở nguyện của người trì chú.


Ngài Ma-Hê-Thủ-La Thiên-Vương.

 

Đây là ngài Ma-Hê-Thủ-La Thiên-Vương. Y hê di hê, Đấng hiện Độc-lâu-thủ-nhãn, khiến cho thuận giải.

 

Ma-Hê-Thủ-La mãnh hựu hung

Thưởng thiện phạt ác kiến kỳ công

Phổ độ quần mê đăng bỉ ngạn

Hóa lợi hữu tình vô thủy chung.

 


37. Thất na thất na

 

Câu chú này được dịch là “Đại trí huệ”, cũng dịch là “Hoằng thệ nguyện”. Đây là Bảo cảnh thủ nhãn ấn pháp. Bảo cảnh được ví như Đại viên cảnh trí của chư Phật.

Đại trí huệ là gì? Đó là khi chúng sanh không còn dính mắc vào vọng tưởng nữa. Có đại trí huệ, thì mỗi niệm đều là biểu hiện của trí bát nhã, mỗi tâm niệm đều lưu xuất từ Đại Quang Minh. Nếu quý vị có trí huệ chân chính thì sẽ có được Quang Minh. Còn nếu chưa thể nhập trí huệ tự tánh, thì vẫn còn trong màn tối tăm của vô minh.

Quang minh là ánh sáng dương, còn bóng tối vô minh là âm. Tại sao người ta ngủ tối? Bởi vì lực âm trồi lên quá mạnh. Do đâu người ta có trí huệ sáng suốt? Bởi vì ánh sáng dương lớn mạnh hơn.

Những người có trí huệ không có lối suy nghĩ như những kẻ phàm phu. Họ có khả năng phân biệt rõ ràng chính tà. Họ không cần phải hỏi người khác, họ biết mọi điều ngay nơi tự thân của mình. Họ không đi vào con đường tẻ, họ bước đi vào ngay chính lộ và hạ thủ công phu. Trong khi hành trì, trước tiên quý vị phải đạt được trí huệ. Rồi quý vị phải biết rõ ràng chính tà để rồi mới tiến vào con đường chánh lộ và tránh con đường tà vạy.

Nhưng quý vị không thể nào biết rõ việc làm nào hư ngụy nên cứ mãi khăng khăng tạo nghiệp ác. Quý vị không thể nào biết được rõ ràng thế nào là phạm giới, nên cứ thế mà làm, ráng hết sức để làm cho được, cứ muốn nhìn cho được dù thực sự đó là những thứ chướng ngại. Những hành vi như thế là sự ngu muội tột cùng, biểu lộ hoàn toàn sự non yếu trí huệ.

Ồ! Không-Quý vị có thể phản đối-Tôi là người có trí huệ, tôi chỉ sai lầm trong nhất thời thôi!

Chỉ sai lầm một lần thôi cũng có nghĩa là vô minh, không có trí huệ rồi. Người có đại trí huệ không hề có tư tưởng sai lầm. Thế nên Tôn giả A Nan đã phát nguyện:

Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng
Bất lịch tăng kỳ hoạch pháp thân.

Nghĩa là:

“Giúp cho con tiêu trừ vọng tưởng sai lầm trong muôn ức kiếp”.

Khiến con chẳng cần trải qua a tăng kỳ kiếp mà chứng ngộ được pháp thân”.

Tôn giả đã phát nguyện tiêu trừ vọng tưởng không những chỉ một, hai, ba, bốn, năm hay một trăm kiếp nhưng trong vô số kiếp.

Nhưng tại sao trong tâm ta lại có quá nhiều vọng tưởng như thế? Khi một vọng tưởng đi qua, vọng tưởng khác kế tiếp theo, và khi vọng tưởng ấy tiêu mất, vọng tưởng sau lại sinh khởi tiếp nối. Giống như sóng trên mặt biển. Quý vị cứ nghĩ rằng đại dương là vật vô tình, nhưng thực sự nó chẳng phải là thứ ở ngoài tâm quý vị mà có. Biển cả cũng được lưu xuất từ trong tâm niệm của chúng sanh. Sóng biển không ngừng nổi lên rồi chìm xuống, cũng hoàn toàn giống như vọng tưởng của chúng sanh chẳng bao giờ ngừng. Nó liên tục mãi. Vọng tưởng trước vừa biến mất, vọng tưởng sau liền tiếp nối, vọng tưởng này tiếp nối vọng tưởng kia, xoay vần tương tục, nối theo nhau không dứt, như dòng thác không bao giờ ngừng. Không có vọng tưởng nào muốn rơi lại đằng sau cả, chúng đều hoàn toàn muốn phóng vọt lên phía trước. Vì sao mà quý vị lại mắc phải quá nhiều vọng tưởng như vậy? Chỉ vì không có trí huệ. Nếu quý vị có trí huệ, thì chẳng còn mảy may vọng tưởng và sóng cũng không còn xao động nữa. Như trong câu thơ:

Thanh phong đồ lai
Thủy ba bất hưng

Nghĩa là:

“Gió trong lành thổi đến,
Biển không còn sóng xao”.

Khi trong công phu mà quý vị đạt được định lực, cũng như sóng biển đã lặng yên. Khi có được định lực thì nước trí huệ hiển hiện, không còn một gợn sóng, chẳng còn một niệm vọng tưởng nào nữa. Lúc đó là thanh tịnh chân thực. Đó là lúc:

“Nhất trần bất nhiễm
Vạn lự giai không”

Thực vậy, khi một người không còn bị vướng dù chỉ một hạt bụi vô minh thì chẳng còn phải lo nghĩ một điều gì nữa cả, mọi thứ trên đời này đều là không. Đó chính là biểu hiện của đại trí huệ.

Người có trí huệ thường thành công trong bất kỳ mọi việc, còn người thiếu trí huệu thường bị thất bại trong bất kỳ việc gì mà họ nhúng tay vào. Do vậy nên trí huệ là vô cùng quan trọng.

Ngu muội là gì? Vô minh chính là ngu muội. Ngu muội cũng chỉ là từ vô minh mà ra. Khi vô minh sinh khởi, con người hoàn toàn bị mất sáng suốt. Quý vị hãy hỏi một người vừa mới làm một việc sai lầm xong thì rõ:

- Tại sao anh lại làm việc đó?

Họ sẽ trả lời:

- Tôi không rõ nữa …

Đó chính là do ngu muội, do sự thiếu sáng suốt, thiếu trí huệ. Nhưng dù họ hành động mê lầm do vô minh, nhưng họ lại không chịu từ bỏ vô minh. Họ lại khăng khăng:

- Tôi biết chứ. Tôi biết nó sai mà! Thật là quái lạ. Con người mê muội chỉ do vì không có trí huệ, không đạt được Đại viên cảnh trí, vì họ không chịu công phu hành trì Bảo cảnh thủ nhãn ấn pháp. Nếu họ tu tập ấn pháp này, thì sẽ không còn ngu muội nữa; bất luận chuyện gì xảy ra. Đó là khi:

Phùng quỷ sát quỷ
Phùng Phật sát Phật

Đây cũng như việc cầm một cây dao thật bén, chặt ngay mọi vọng tưởng vừa lóe lên. Đại trí huệ cũng như một con dao bén hay còn được ví như thanh gươm.

Quý vị có thể nói: “Gươm trí huệ rất nặng, không, không dễ gì cầm kiếm ấy được”! Đó là vì quý vị chưa từng cầm nó. Thực ra, sử dụng kiếm này chẳng cần sử dụng chút sức lực nào cả. Nếu quý vị chưa từng cầm nó lên thì thấy nó quá nặng. Nếu quý vị đã cầm lên rồi, thì thấy nó nhẹ. Nếu quý vị không chịu cầm lên, thì nhẹ biến thành nặng. Nếu quý vị chịu cầm lên, thì nặng biến thành nhẹ. Sao vậy? Vì quý vị đã cầm lên rồi!

Nếu quý vị nói: “Tôi biết rằng gươm trí huệ rất quan trọng, nhưng quá nặng. Tôi không thể nhấc lên nổi”. Và quý vị không sờ tới gươm. Thế nên gươm trí huệ càng nặng thật. Nhưng một khi quý vị đã sờ vào kiếm, đã vung gươm lên rồi thì mọi sự hiểu biết đều bén nhọn như lưỡi gươm, chẳng còn một chút rắc rối nào nữa cả. Thế nên tôi thường nói với quý vị rằng:

“Mọi việc đều tốt đẹp cả”. Chính là phát xuất từ đạo lý này. Nếu quý vị gặp nhiều việc rắc rối, là vì quý vị không có thanh gươm trí huệ. Nếu quý vị có được thanh kiếm trí huệ ấy, thì sẽ chẳng còn chuyện gì rắc rối nữa cả. Màu nhiệm là ở điểm này.

Núi sông đất liền, lâu đài nhà cửa, thế giới y báo cũng như chánh báo đều không vượt ra ngoài tâm niệm hiện tiền của chúng ta.

Cái gì là thế giới y báo? Núi sông, đất liền, lâu đài nhà cửa gọi là thế giới y báo. Thế giới chánh báo là thân tâm của chúng ta, chính là nơi mà con người chúng ta thọ nhận sự báo ứng. Nếu quý vị đã hiểu được sự báo ứng khi chính mình thọ nhận, nghĩa là quý vị không còn vô minh nữa. Không còn vô minh nghĩa là có trí huệ. Điều này được ví như tấm gương:

Vật lai tắc ánh
Vật khứ tắc không.

Nghĩa là: “Vật đến liền chiếu. Vật biến hoàn không”. Tấm gương chẳng lưu giữ dấu vết gì cả. Kẻ trí thường thản nhiên với mọi chuyện và cứ để nó trôi qua mà lòng chẳng còn vướng bận điều gì.

Mặc dù kẻ trí chẳng lưu giữ điều gì lại trong lòng, nhưng mọi vật thường tự hiển bày. Và mặc dù nó thường tự hiển bày nhưng chẳng hề bị vướng mắc.

Chúng ta là hàng phàm phu, chưa có được đại trí huệ, phải nỗ lực vượt bậc để thường nhớ trì tụng chú Đại Bi, hoặc thường niệm câu: “Y hê di hê, Thất na thất na”.

Khi đã tụng một lần rồi là không còn quên nữa, đã tụng được hai, ba lần, vài trăm lần rồi thì chẳng thể nào quên được nữa. Đó là phải cố gắng để ghi nhớ. Còn khi quý vị chỉ cần nhìn hoặc nghe lướt qua một lần rồi nhớ mãi không quên, chẳng cần phải dụng công ghi nhớ nữa, đó là khi trí huệ của quý vị chiếu sáng như một đài gương trong.

Người có trí huệ đều biết rằng mọi hiện tượng đều lưu xuất từ tự tâm của mình. Nếu quý vị hiểu được điều này thì mình sẽ không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa. Sao vậy? Vì mọi sự việc đều lưu xuất từ tâm mình, nên những thứ vui buồn giận ghét đều là sở hữu của chính mình. Dù nó tốt hay xấu, cũng chẳng có vấn đề gì cả.

Mặc dù nói về cảnh giới ấy thì rất dễ, nhưng tiếp xúc với cảnh giới ấy không phải dễ dàng gì, cần phải có công phu mới tiếp xúc được với cảnh giới ấy. Những người không có công phu sẽ nói:

“Đối với tôi, chẳng có vấn đề gì rắc rối cả”.

Bên ngoài thì như thế, nhưng vấn đề rắc rối đang phát sinh và chống đối với nhau ở bên trong. Những người có trí huệ chân chính thì rất hiếm.

Quý vị cũng nên phân biệt rõ trí huệ thế gian và trí huệ xuất thến gian. Trí huệ thế gian còn gọi là Thế trí biện thông, là có thể nhào nặn ngay ra một đạo lý khi nào cần đến. Nơi nào không có đạo lý, họ có thể tạo dựng ra, khiến mọi người nghe rất hợp lý. Những kẻ mê muội nghe họ nói liền nghĩ rằng:

“Ồ! Họ đề cập đến những đạo lý rất đúng”. Thực ra, nếu quý vị có được trí huệ chân chính, quý vị sẽ không bị đắm chìm trong mớ lý luận ngu muội của họ. Người ta thường nói: “Trong dương có âm”.

Cũng vậy, trong trí huệ cũng có sự ngu muội-sự ngu muội một cách trí huệ. Mặt khác, trong âm có dương. Bên trong sự ngu muội ẩn chứa một trí huệ. Chẳng hạn như quý vị có thể thấy một người chẳng nói năng gì cả, dường như là kẻ quê mùa dốt nát, nhưng anh ta làm những việc chân chính. Anh ta có thể hiện thân một kẻ hồ đồ mê muội, nhưng luôn luôn ứng xử khế hợp với đạo lý. Có rất nhiều người như vậy.

Khi quan sát người khác, quý vị sẽ tự chiêm nghiệm ra chính tự thân mình có được trí huệ sáng suốt hay không. Nếu quý vị có trí huệ chân chính, thì quý vị không bị người khác sai sử, dẫn dắt đến chỗ sai lầm. Còn nếu quý vị không có trí huệ, quý vị sẽ bị người khác xui khiến làm điều xằng bậy.

Trí huệ và ngu muội có một mối quan hệ trực tiếp. Đó là hai mặt của một chỉnh thể. Vắng bóng vô minh thì trí huệ hiển bày. Và vô minh sinh khởi khi thiếu vắng trí huệ. Trong vô minh có trí huệ và chính trong trí huệ có bóng dáng của vô minh. Sao lại như thế? Vì trí huệ và vô minh là một. Nếu quý vị biết vận dụng, thì đó là trí huệ. Còn nếu không biết vận dụng thì đó là vô minh. Chẳng hạn như khi quý vị nâng thanh gươm trí huệ lên thì đó chính là trí huệ; còn khi quý vị buông thanh gươm ấy xuống thì đó là vô minh. Đó không phải là hai mà chỉ là một. Thế nên quý vị đừng bao giờ nói rằng mình đang đi tìm kiếm trí huệ và đang xua đuổi vô minh. Không ai làm được việc ấy bao giờ. Chủ yếu chỉ là sự “hồi đầu”.

Có thể lấy ví dụ của bàn tay để biểu tượng cho trí huệ và mặt kia là biểu hiện cho vô minh. Nếu quý vị muốn cầm nắm một đồ vật bằng mặt kia của bàn tay thì không thể nào làm được cả, nhưng nếu quý vị dùng chính bàn tay của mình thì mới lấy được đồ vật. Việc không lấy được đồ vật là biểu tượng cho vô minh và việc sử dụng bàn tay để lấy được vật là biểu tượng cho trí huệ. Đó là hai khía cạnh của chỉ một ý nghĩa chung nhất, tùy thuộc vào sự vận hành của quý vị.

Có người lại nói: “Nay tôi đã hiểu rồi. Vô minh và trí huệ chính là bàn tay của tôi”. Lại sai lầm nữa! Bàn tay chỉ là ví dụ. Đừng nên cho rằng trí huệ và vô minh chính là bàn tay. Cũng giống như ví dụ ngón tay và mặt trăng (trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm). Đức Phật lấy ví dụ dùng ngón tay để chỉ cho người thấy mặt trăng. Đừng nhầm lẫn ngón tay chính là mặt trăng.

Thất na thất na là “đại trí huệ” và còn có nghĩa là “hoằng thệ nguyện”-là phát nguyện rộng lớn. Khi muốn hoàn thành một việc gì, phải phát thệ nguyện làm cho đến cùng. Như đức Phật A Di Đà trước khi thành chánh giác, khi đang tu tập nhân địa với hình tướng của một Tỳ kheo, Ngài đã phát 48 lời nguyện rộng lớn. Bồ tát Phổ Hiền cũng đã phát 10 Đại nguyện Vương. Bồ tát Quán Thế Âm cũng phát vô số lời nguyện cũng như các vị Tổ sư đã từng phát nguyện. Tôi đang giảng cho quý vị nghe về việc phát đại nguyện. Còn có lập nguyện được hay không là do ở quý vị. Tôi đưa đề tài này ra giảng vì tôi đoán chắc là quý vị chưa được thông hiểu. Nhưng không phải là tôi bắt buộc quý vị phải phát nguyện. Nay quý vị đang tu học Phật pháp, mỗi người nên tự mình lập hạnh nguyện, càng lớn càng tốt. Lập nguyện càng lớn thì sự thành tựu càng cao. Hiện nay chúng ta đều đang tu nhân và chưa ai thành Phật cả, chúng ta nên phát lời nguyện ở nơi nhân địa mà tu hành. Mỗi người nên viết rà lời nguyện của mình thật chi tiết. Đừng phát nguyện một cách hời hợt, qua loa, cho có nguyện mà phải thiết thực như: “Con nguyện cứu độ tất cả mọi loài chúng sanh”.

Thật chứ? Làm sao quý vị có thể độ chúng sanh được. Khi suốt ngày quý vị cứ tìm mọi cách để được ăn ngon, mặc đẹp, ở nơi xa hoa tráng lệ. Việc cứu độ chúng sanh trước hết là độ chúng sanh nơi cái miệng chuyên nói lời vọng ngôn của quý vị, độ cái bụng ham ăn, độ cái thân ham thích sung sướng của chính mình trước đã. Cho nên quý vị phải thẳng thắn và minh bạch trong khi phát nguyện. Hiện tại mình phát nguyện gì? Tương lai sẽ ra sao? Như ở trong quá khứ, chúng ta có thể quên lãng những gì đã từng ứng dụng tu hành. Nhưng trong tương lai chúng ta sẽ thực hành điều gì? Mỗi người Phật tử đều phải nên có lời phát nguyện. Nay ở trong nhân địa, lời phát nguyện càng lớn thì trong tương lai, kết quả sẽ càng cao. Nếu quý vị đặt tất cả nguyện lực của mình vào một lỗ chân lông, thì quý vị có thể phát một thệ nguyện lớn ngay từ trong lỗ chân lông.

Phát nguyện là một lời hứa thiêng liêng mà mọi người Phật tử đều nên thực hiện. Phát nguyện rất quan trọng, vì không có nó cũng như không có người hướng dẫn. Giống như đi đường mà không biết mình sẽ đi hướng nào, chẳng biết nên rẽ phải hay nên quẹo trái để đến đích. Nếu quý vị phát nguyện, cũng như khi du lịch có người hướng dẫn đường đi và nơi đến.

Tại sao chư Phật và chư Bồ tát đều phát nguyện khi tu đạo? Vì khi đã phát nguyện rồi, mình mới tự mình hành động tương ứng với nguyện đã lập. Ví dụ như Bồ tát Địa Tạng khi tu hành ở nhân địa, Ngài đã phát lời nguyện vĩ đại:

…“Địa ngục vị không
Thệ bất thành Phật
Chúng sanh độ tận
Phương chứng Bồ đề”.

Nghĩa là:

“Chúng sanh độ hết
Mới chứng Bồ đề
Địa ngục nếu còn
Con chưa thành Phật”.

Nguyện lực này cực kỳ vĩ đại. Chúng ta cũng nên phát nguyện. Mỗi quý vị nên phát một hạnh nguyện phù hợp với những việc hằng ngày quý vị thích làm.


Ngài Ca-Na Ma-Tướng Thiên-Vương.

 

Thất na thất na, Đấng Đại-trí-hoằng-thệ hiện Bảo-cảnh-thủ-nhãn.


Thị thiện thị ác nhiếp chúng sanh

Hốt thuận hốt nghịch chiết tánh linh

Phản bổn hoàn nguyên tu chư kỷ

Ma Ha Bát Nhã nhật dạ minh.

 

Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền Chứng Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.

 

Nhứt Tâm Quy Mạng  Đảnh Lễ:  Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A-Di-Ðà Như-Lai biến pháp giới Tam bảo.



38. A ra sâm Phật ra xá-lợi


A ra sâm dịch là “Chuyển luân pháp vương”, tức là vị Đại Pháp Vương thường chuyển cỗ xe đại pháp, thường tuyên thuyết diệu nghĩa Đại thừa. Giáo nghĩa này thậm thâm vi diệu, không ai có thể diễn nói tường tận được, nhưng hiện nay quý vị đang được nghe giảng từng chi tiết rõ ràng.

Đó là ý nghĩa của câu chú này. Đây là “Chưởng thượng hóa Phật thủ nhãn ấn pháp”. Quý vị nên hành trì ấn pháp này. Khi thành tựu rồi, đời đời khi được sinh ra liền thân cận bên Phật để học hỏi giáo pháp.

Có rất nhiều cách để giảng giải chú Đại Bi. Chẳng hạn có một vị pháp sư khác giảng mỗi thủ nhãn này là danh hiệu của một vị Bồ tát. Chẳng hạn vị ấy cho rằng: Chưởng thượng hóa Phật thủ nhãn này là Chưởng thượng hóa Phật Bồ tát. Đây chính là trường hợp sai một ly đi một dặm. Sao vậy?  đây hoàn toàn chẳng có một vị Bồ tát nào cả. Quý vị có thể đọc hết cả Tam tạng kinh điển nếu quý vị muốn nhưng sẽ chẳng thấy vị Bồ tát nào có danh hiệu là Chưởng thượng hóa Phật Bồ tát cả.

Có thể nói như thế này: Chưởng thượng hóa Phật thủ nhãn ấn pháp là pháp tu của chư vị Bồ tát, chứ không thể gọi đó là Chưởng thượng hóa Phật Bồ tát. Nếu gọi như thế là một sai lầm.

Nên khi nói Bảo bát thủ nhãn ấn pháp quý vị có thể hiểu rằng: Bảo Bát ấn pháp là pháp tu của chư vị Bồ tát. Còn Bảo Bát không phải là danh hiệu của một vị Bồ tát. Mới đây tôi được xem qua bộ “Đại Bi Kinh giảng nghĩa” ở Hồng Kông gửi sang, trong kinh này họ đã giảng bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp là danh hiệu của bốn mươi hai vị Bồ tát. Đó hoàn toàn sai lầm. Bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp trong kinh là các pháp tu của hàng Bồ tát. Người học Phật pháp nên ghi nhớ kỹ điểm này, không nên xác tín mà không căn cứ trên sự thực hiển nhiên. Trong khi giải thích Phật pháp cho người nghe, quý vị phải có một lập trường vững chãi, chính xác về những gì mình đưa ra, còn không quý vị sẽ phạm sai lầm.

A ra sâm là Chưởng thượng hóa Phật thủ nhãn ấn pháp mà các vị Bồ tát đều phải tu hành.

Quý vị lại hỏi: “Bồ tát nào?”

Đây chẳng phải là một vị Bồ tát nào riêng biệt cả. Bất kỳ người nào hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp thì người ấy chính là Bồ tát. Bất luận người nào không tu tập bốn mươi hai ấn pháp thì người ấy không phải là Bồ tát. Nếu quý vị tu tập bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp được thành tựu thì có thể minh chứng rõ ràng quý vị đã dự vào hàng Bồ tát rồi.

Phật ra xá-lợi dịch là “giác thân tử”. Đây là Sổ châu thủ nhãn ấn pháp hoặc là Niệm châu ấn pháp, là pháp môn của chư vị Bồ tát tu tập. Khi Bồ tát tu tập thủ nhãn này thành tựu, thì chư Phật trong mười phương nhiếp thọ và tiếp dẫn hành giả đến các thế giới Phật khắp trong mười phương.


Ngài Quán-Thế-Âm Bồ-tát

 

Đây là Quán-Thế-Âm Bồ-tát một tay cầm khiên, tay cầm cung tên và tay cầm cái nỏA ra sâm Phật ra xá-lợi, Đấng Chuyển-pháp-luân-vương hiện Hóa-phật-thủ-nhãn, đấng Thân-giác-ngộ hiện Sổ-châu-thủ-nhãn.  

 

Tứ thập nhị thủ diệu vô cùng

Thông thiên đạt địa cảm mê mông

Bài nỗ cung tiễn uy thần tốc

Cường giả điều phục nhược giả hưng.



39. Phạt sa phạt sâm

 

Phạt sa phạt sâm  dịch là “Hoan ngữ hoan tiếu”. Có nghĩa là rất hoan hỷ khi giảng nói. Còn dịch nghĩa là “Đại trượng phu” và “Vô thượng sĩ”.

Đây là Bảo cung thủ nhãn ấn pháp. Khi hành trì thành tựu ấn pháp này, nếu là người tại gia thì có thể được làm quan cận thần, người xuất gia có thể chứng được quả vị A la hán.


Ngài Kim-Khôi Đại-Tướng

 

Đây là Ngài Kim-Khôi Đại-Tướng tay cầm cái linh. Phạt sa phạt sâm, Đấng Hoan-hỷ sĩ-phu, hiện Bảo-cung-thủ-nhãn

  

Uy mãnh từ bi đại trượng phu

Điều phục chúng sanh xuất mê đồ

Cải ác tùng thiện tu chư độ

Bồi thực phước huệ ngộ chơn như.


 

40. Phật ra xá da

 

Ở câu trên, Phật ra xá-lợi. “xá-lợi” dịch nghĩa là “Giác thân tử”. Còn trong câu Phật ra xá da, “xá da” dịch là “Tượng”: con voi. Nghĩa là khi quý vị đã giác ngộ rồi, thì tâm thể quý vị được ví như một con voi chúa, còn được gọi là Pháp vương tử. Quý vị có thể là Pháp vương tối cao trong tất cả các pháp môn. Nói chung, ý nghĩa của câu chú này là: Tâm giác ngộ như một tượng vương cao quý.

Phật ra xá da là nói về bổn thể của đức Phật A Di Đà. Đức Phật A Di Đà là bổn sư của Bồ tát Quán Thế Âm. Vì Bồ tát Quán Thế Âm tỏ lòng tôn kính đức bổn sư của mình nên Bồ tát đã đảnh lễ đức Phật A Di Đà trong khi tuyên thuyết chú Đại Bi. Nên đức Phật A Di Đà phóng hào quang để tiếp độ cho người trì chú này.

Phật ra xá da là Tử liên hoa thủ nhãn ấn pháp. Trong bốn mươi hai thủ nhãn, có Bạch liên hoa thủ nhãn, Thanh liên hoa thủ nhãn, Hồng liên hoa thủ nhãn ấn pháp. Khi hành trì thành tựu các ấn pháp này, hành giả sẽ được diện kiến mười phương chư Phật. Vì vậy Tử liên hoa thủ nhãn ấn pháp rất trọng yếu.


Bổn-thân đức Phật A-Di-Đà.

 

Đây là bản-thân Phật A-Di-Đà thầy của đức Quán-Thế-Âm Bồ-tát. Phật ra xá da, Đấng Tử-tượng, hiện Tử-liên-hoa-thủ-nhãn.

 

Quán Âm sư chủ A-Di-Đà

Tứ thập bát nguyện hóa Ta-bà

Tam bối cửu phẩm sanh Cực-lạc

Thủy lưu phong động diễn Ma-Ha.


 

41. Hô lô hô lô ma ra

 

Hô lô hô lô ma ra. Hán dịch là “Tác pháp như ý”. Cũng dịch là “Tác pháp mạc ly ngã”.

Đây là Ngọc hoàn thủ nhãn ấn pháp. Trong bốn mươi hai ấn pháp, khi hành giả hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp này được gọi là “tác pháp”. “Như ý” nghĩa là tùy theo tâm nguyện đều được như ý. Khi hành giả tu tập thành tựu ấn pháp này rồi, thì mọi việc đều được như tâm nguyện nên gọi là “Như ý”.

Còn “Tác pháp mạc ly ngã” có nghĩa chính hành giả là người tu tập, không phải người nào khác. Nên khi hành giả tác pháp này, thì ấn pháp không rời khỏi hành giả và hành giả không rời khỏi ấn pháp. Pháp và ngã là một. Thế nên chẳng có pháp và cũng chẳng có ngã, pháp chấp và ngã chấp đều không. Đó là ý nghĩa của “Tác pháp mạc ly ngã”.

Hành trì “Ngọc hoàn ấn pháp”. Có thể khiến tất cả chúng sanh đều vâng theo sự giáo hóa của hành giả. Dạy họ tu pháp gì, họ đều tu theo pháp môn ấy không sai lệch.


Bát-bộ Quỷ-Thần-Vương.


Đây là Bát-bộ Quỷ-Thần-Vương. 
Hô lô hô lô ma ra, Đấng Tác-pháp-như-ý, hiện Ngọc-hoàn-thủ-nhãn.


Quán âm thị hiện Quỷ-Thần-Vương

Hàng phục chư ma thủ quy chương

Nhất thiết chúng sanh y giáo hối

Cường giả điều nhu nhược giả xương.



42. Hô lô hô lô hê lỵ

 

Hô lô hô lô. Hán dịch là “tác pháp vô niệm” cũng dịch là “tác pháp tự tại”. Trong câu chú Hô lô hô lô ma ra đã giảng ở trước có nghĩa là “tác pháp như ý”, khi tác pháp vẫn còn khởi lên ý niệm. Còn trong câu chú  Hô lô hô lô hê lỵ thì vắng bặt sự khởi niệm khi tác pháp. Nếu khi hành trì ấn pháp này, mà còn khởi niệm tức là còn vọng tưởng. Nếu hành giả không khởi niệm, tức là không còn vọng tưởng nên đạt được khả năng “tác pháp tự tại” và trở thành người có năng lực Quán Tự Tại. Đó chính là vị Bồ tát thường quán sát âm thanh ở thế gian để cứu độ một cách tự tại, Bồ tát Quán Thế Âm.

Câu chú này là Bảo bát thủ nhãn ấn pháp, là ấn pháp thứ ba trong số bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp. Ấn pháp này có công năng giải thoát cho chúng sanh khỏi những tai ương bệnh hoạn.

Các vị xuất gia khi gặp người bệnh, trì chú này vào trong ly nước, cho người bệnh uống thì có thể được khỏi bệnh. Nếu bệnh không lành, thì phải quán sát lại toàn bộ nhân duyên. Nếu gặp duyên lành, khi quý vị uống nước có trì chú Đại Bi thì liền được lành bệnh, là do đã đặt hết niềm tin vào Bồ tát Quán Thế Âm. Nếu không được lành bệnh, có thể là do quý vị thiếu lòng tin nơi Bồ tát.

Sự thực là như vậy, nay tôi sẽ truyền pháp này cho quý vị luôn. Để cho ly nước có trì chú Đại Bi, có được năng lực như vậy, quý vị không cần phải trì tụng toàn văn bài chú này, mà chỉ cần trì tụng câu Hô lô hô lô hê lỵ năm lần rồi dùng tay kiết ấn ba lần búng vào phía trên ly nước. Rồi trao cho người bệnh uống sẽ được khỏi hẳn. Có khi bệnh không lành, có khi bệnh lành hẳn. Tất cả đều tùy thuộc vào nhân duyên giữa hành giả và người bệnh. Nếu quý vị có nhân duyên sâu dày với người bệnh, thì khi họ uống xong nước có trì chú Đại Bi liền được khỏi bệnh. Còn nếu người bệnh không có duyên với hành giả, thì dù họ có uống nước đã trì chú, nhưng vì họ không có niềm tin ở Bồ tát Quán Thế Âm, thì bệnh họ không được lành hẳn.

Nói chung có vô lượng nhân duyên để tạo thành pháp duyên cơ bản này. Nếu người bệnh đã có công phu hành trì và phát tâm chí thành, khi uống nước có trì chú vào là liền khỏi bệnh. Còn nếu quý vị có tu tập nhưng thiếu lòng chí thành, thiếu sự tin tưởng vào chú Đại Bi thì dù uống nước đã trì chú cũng chẳng ích lợi gì. Còn nếu quý vị có tâm chí thành và dù không tu tập đi nữa, thì khi uống nước đã trì chú cũng có được sự lợi ích. Những người vốn đã tạo nghiệp chướng sâu dày, nếu được uống nước đã trì chú vào thì không đủ tạo nên năng lực để chuyển hóa bệnh của họ. Còn nếu người có nghiệp nhẹ khi uống nước đã trì chú vào thì có thể phát sinh năng lực to lớn. Đó là năng lực do thường xuyên trì niệm chú Đại Bi, đã tạo ra một năng lực cảm ứng đạo giao. Chính năng lực này đã chữa lành bệnh.

Thế nên bất luận trường hợp nào, có trùng trùng duyên khởi quyết định sự thành công. Đừng nghĩ rằng: “Tôi đã hành trì Bảo bát thủ nhãn ấn pháp, tôi đã trì chú Đại Bi vào trong nước, tại sao chẳng có chút nào hiệu nghiệm?”

Đó chẳng phải là nước trì chú Đại Bi không có hiệu nghiệm. Chỉ vì công phu của quý vị chưa được đắc lực, nên hiệu quả không được bao nhiêu.

Có một số phái ngoại đạo cũng dùng pháp trì chú Đại Bi vào nước để chữa bệnh và đạt được công hiệu linh ứng. Đó là vì họ có sự trợ giúp của loài thiên ma khiến cho người được lành bệnh tin vào họ, rồi dẫn dắt vào hàng quyến thuộc của thiên ma ngoại đạo. Vì thế, tuy cũng hành trì một pháp môn mà có thiên sai vạn biệt kết quả.

Dùng nước Đại Bi để chữa bệnh cho người là một pháp môn thực hành Bồ tát đạo. Nhưng quý vị muốn tu pháp này trước hết phải thực hành mọi hạnh nguyện của hàng Bồ tát. Phải luôn luôn giữ tâm niệm “vô ngã”, “vô nhân”. Nghĩa là trong tâm không còn bốn tướng: ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả nữa. Quý vị đừng nghĩ rằng: “Tôi chữa lành bệnh của chúng sanh được, khi tôi trì chú Đại Bi, tôi tạo ra được sự cảm ứng vô cùng lớn lao”.

Nếu quý vị khởi niệm như thế, nghĩa là quý vị đã khởi dậy ngã chấp. Với ngã chấp ấy, liền bị rơi vào ma chướng, dù quý vị không có tâm niệm ngã chấp nhưng rất dễ bị gặp ma chướng khi tu tập pháp môn này. Bệnh nào cũng do nghiệp chướng hoặc ma chướng. Nếu bệnh vì nghiệp, thì chẳng có vấn đề gì khi quý vị chữa trị cho họ. Còn nếu bệnh do ma chướng, khi quý vị chữa trị cho họ có nghĩa là quý vị tuyên chiến với ma vương, nó có thể hãm hại quý vị. Nếu đạo lực của quý vị chưa đầy đủ, quý vị có thể bị thu phục vào cảnh giới của ma. Còn nếu quý vị có được đạo lực và tạo được đôi chút ảnh hưởng với chúng, thì chúng sẽ liên tục tìm mọi cách để đánh bại quý vị.

Tôi vốn thích chữa bệnh cho mọi người nên khi có ai bị bệnh, tôi tìm mọi cách để chữa cho họ. Nhưng sau đó, tôi phải đối đầu với ma chướng rất trầm trọng. Ở Mãn Châu, có một loài thủy quái muốn dìm chết tôi, nhưng nó thất bại. Tuy vậy, có 50-60 người bị chết và hơn 800 căn nhà bị thủy quái này phá hủy. Sau đó, trên đường đi từ Thiên Tân đến Thượng Hải, loài thủy quái đó lại tìm cách lật thuyền của tôi, chỉ chút xíu nữa là tôi biến thành thức ăn của cá. Từ đó mỗi khi đi hoằng hóa đây đó, tôi thường ít khi chữa bệnh.

Thế nên chữa bệnh là cách tốt nhất để kết duyên, nhưng đó cũng rất dễ kết oán với quyến thuộc nhà ma. Nó có điểm tốt và cũng có điểm không hay. Nếu quý vị làm việc đó mà tâm niệm không vướng mắc vào bốn tướng: ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả thì quý vị có thể xoay chuyển mọi tình huống. Còn nếu quý vị không tự chuyển hóa mọi tâm niệm của chính mình khỏi bốn tướng trên thì rất dễ rơi vào ma chướng. Cho nên, kết duyên với chúng sanh qua việc chữa bệnh cho họ là một vấn đề đòi hỏi năng lực tu tập rất cao.


Bổn-thân ngài Tứ-Tý Tôn-Thiên.

 

Đây là Tứ-Tý Tôn-Thiên mình mặc áo giáp lá liễu. Hô lô hô lô hê lỵ, Đấng Tác-pháp vô-niệm, hiện Bảo-bát-thủ-nhãn.

 

Tứ-Tý Tôn-Thiên hiện thần uy

Nhất thiết tà ma vọng phong hồi

Quy y tam bảo quán tự tại

Tích công lũy hạnh thiện đức bồi.



34. Ta ra ta ra

 

Quý vị nghe âm vang của câu chú này rất hùng, phải không? Ta ra Ta ra dịch là “Kiên cố lực”, là thần lực rất mạnh mẽ, không một thứ gì có thể lay chuyển được.

Kiên cố lực này có thể phá hủy và hàng phục tất cả các loài thiên ma ngoại đạo.

Đây là Kim cang xử thủ nhãn ấn pháp. Công năng của ấn pháp này là hàng phục tất cả các loại ma oán.


Đời ngũ trược ác thế.


Đây là chỉ cho đời ác năm trược. 
Ta ra ta ra, Đấng Sức-mạnh kiên cố, hiện Kim-cang-xử-thủ-nhãn.

 

Thiện xảo phương tiện độ ta bà

Thị hiện ngũ trược hóa quần ma

Thường hành vô ngã ba la mật

Ly chư pháp chấp diễn ma ha.



44. Tất rị tất rị

 

Tất rị tất rị có ba nghĩa: Thứ nhất là “dõng mãnh” như trong chiến trận, người dõng mãnh là luôn luôn chiến thắng, không hề bị đánh bại. Nghĩa thứ hai là “thù thắng” nghĩa là vượt lên trên tất cả sự hoàn hảo, không bao giờ bị thất bại. Thứ ba nghĩa là “cát tường”. Vì khi hành giả có được sự dõng mãnh mới có được sự thắng vượt mọi chướng ngại, mới có được sự cát tường.

Tôi thường nói với các đệ tử của tôi rằng khi làm bất kỳ việc gì, dù ở cương vị nào cũng phải phát tâm dõng mãnh, thắng vượt chứ không bao giờ được thoái thất. Nếu ai lui sụt, đừng trở về gặp mặt tôi nữa. Những người yếu đuối, bại hoại thì có ích gì? Họ chẳng khác gì một thứ mà người Quảng Đông thường gọi là “thủy bì” là túi da đựng nước mềm nhũn. Còn ở Đông Bắc thì gọi là “thảo bao”, là cái túi rơm để đựng hạt giống mềm yếu và vô dụng. Nên hãy nhớ điều này: bất kỳ ai muốn phát nguyện trở thành đệ tử của tôi là phải luôn luôn vượt thắng mọi điều, phải có tâm kiên cố như chày Kim Cang vậy. Còn như “thủy bì” và “thảo bao” thì không thể nào theo nổi.

Tất rị tất rị Hiệp chưởng thủ nhãn ấn pháp. Có thể khiến cho tất cả long xà, hổ lang, sư tử, nhân cùng phi nhân ph1t tâm kính ngưỡng. Tuy nhiên, hành giả phải thực sự có tâm dõng mãnh, vượt thắng và tâm bất thối chuyển. Công năng của ấn pháp này không phải là ở chỗ ngôn thuyết mà phải bằng nỗ lực hành trì.


 

Ngài Quán-Thế-Âm Bồ-tát.

 

Đây là ngài Quán-Thế-Âm Bồ-tát lợi ích chúng sanh không thể nghĩ bàn. Tất rị tất rị, Đấng mạnh mẽ lành tốt thù thắng, hiện Hiệp-chưởng-thủ-nhãn.


Năng Quán chi trí sở Quán cảnh

Viên dung tự tại chơn như tánh

Vô biên thệ nguyện lợi chúng sanh

Bất khả tư nghị thường tại định.



45. Tô rô tô rô

 

Tô rô tô rô. Hán dịch là “cam lồ thủy”. Đây cũng chính là Cam lồ thủ nhãn ấn pháp. Trước đây tôi đã giảng về diệu dụng của nước cam lồ rồi. Có thể giúp cho các loài quỷ đói được no đủ và mọi tâm nguyện đều được như ý, làm tiêu tan mọi sự đói khát, thọ nhận được nhiều điều tốt lành khác nữa.

Nước cam lồ này còn gọi là “Bất tử dược”. Nếu có người sắp chết uống nước cam lồ này thì sẽ được sống lại. Nhưng không dễ gì gặp được nước cam lồ này nếu không có duyên lành.


 

Tiếng lá cây rụng.

 

Đây là tiếng rơi rụng của lá cây ở cõi chư Phật. Tô rô tô rô, Đấng ban vẩy nước Cam-lồ, hiện thí Cam-lồ-thủ-nhãn.

 

Vạn vật thuyết pháp hữu thùy thính

Thế giới chúng sanh vọng tưởng ngưng

Chư Phật bổn nguyên ly văn tự

Như Thị Ngã Văn đại bi công.



46. Bồ-đề dạ bồ-đề dạ

 

Bồ-đề dạ. Hán dịch là “Giác đạo”. Muốn thành tựu giác đạo thì trước hết, quý vị phải có được giác tâm. Nếu không có giác tâm, thì không thể nào tu tập để thành tựu đạo giác ngộ. Hành giả trước hết phải có tâm liễu ngộ chân thực rồi mới có thể tu tập đến chỗ thành tựu đạo nghiệp được. Hai câu chú này gọi là Bất thối kim luân thủ nhãn ấn pháp. Đó chính là tâm Bồ-đề kiên cố không bao giờ thoái chuyển.

Từ nay cho đến khi thành tựu quả vị Phật, quý vị phải phát tâm dõng mãnh ngày càng tinh tấn hơn. Đừng nên dừng lại hoặc lui sụt. Chẳng hạn như khi quý vị nghe giảng kinh, hãy khởi tâm niệm rất khó có dịp được nghe giảng kinh Phật. Rất hiếm khi được gặp pháp hội. Mặc dù chuyện này xem có vẻ bình thường, nhưng nếu quý vị lắng lòng suy gẫm kỹ sẽ thấy giá trị vô cùng. Thử xem có nơi đâu trên thế giới này có được một pháp hội tinh tấn như thế này, ngày nào cũng đến đây để nghe giảng kinh? Còn có nơi đâu khác trên thế giới mà pháp âm tuôn trào như thác, như sông mãi không ngừng như ở đây?

Nên khi đã có duyên gặp gỡ được pháp hội, quý vị phải thu xếp công việc, dù có bận rộn bao nhiêu, bất luận pháp sư giảng đề tài gì, người nào giảng cũng phải đến nghe. Đừng có phân biệt giữa pháp sư giảng hay và người giảng kém, rồi chỉ đến nghe người giảng hay. Nếu quý vị vẫn kiên trì đến nghe bất luận pháp sư nào giảng, lâu ngày chày tháng, chắc chắn quý vị sẽ thâm nhập được vào dòng đạo lý chân thật. Dù ai giảng đi nữa, quý vị cũng nên đến nghe để hộ trì cho pháp hội. Nếu một tuần có giảng pháp bảy đêm thì quý vị cũng nên tham dự cả bảy đêm. Đừng nên lười biếng!

Pháp môn này khó gặp được đã từng hằng triệu kiếp nay rồi. Một khi đã có duyên được gặp thì phải nên tinh tấn tu học. Sự tinh tấn chính là “tâm Bồ-đề ” kiên cố dõng mãnh vậy.

Nếu bỏ mất tâm Bồ-đề mà mong ngày thành đạo thì không khác gì nấu cát mà mong thành cơm. Nên trong Kinh Hoa Nghiêm, đức Phật dạy:

“Vong thất Bồ-đề tâm, tu chư thiện pháp, thị chư ma nghiệp”.

Nghĩa là: “Bỏ quên tâm Bồ-đề dù tu ngàn thiện pháp như làm việc ma vậy”.

Về bất thối, có ba dạng:

- Thứ nhất là vị bất thối: Nếu hành giả đã chứng quả A-la-hán rồi, thì không còn trở lại hàng phàm phu nữa. Nếu hành giả đã chứng quả Bồ-tát rồi thì không còn rơi lại hàng A-la-hán nữa. Nếu hành giả đã chứng đắc quả vị Phật rồi thì không còn trở lại hàng Bồ-tát nữa. Trừ những vị muốn thị hiện hóa thân để giáo hóa chúng sanh. Ví dụ như hành giả có thể phát nguyện: “Nay tôi đã thành tựu quả vị Phật rồi, tôi muốn hiện thân Tỳ kheo để giáo hóa chúng sanh”. Điều ấy hoàn toàn đúng.

- Thứ hai là niệm bất thối: Đôi khi hành giả phát khởi tâm niệm: “Tu học Phật pháp thật chán, tôi không còn muốn tu hành hoặc đi giảng pháp gì nữa cả!”. Đây là niệm thoái thất. Khi hành giả khởi niệm thoái thất, thì ma chướng liền theo ngay, vì ma vương rất vui khi người tu hành khởi niệm lui sụt.

Một khi quý vị đã đạt được “niệm bất thối”, thì càng nghe pháp, càng muốn được nghe nhiều hơn.

Niệm bất thối là tâm lượng của hành giả không còn bị trôi lăn trong dòng thức biến “bất giác vọng động nữa”, không còn trải qua bốn tướng sinh trụ dị diệt của niệm khởi nữa. Niệm bất thối luôn được lưu xuất từ Bồ-đề tâm, là bạn đồng hành của tâm kiên cố. Kiên cố là nét đặc trưng của tâm Bồ-đề . Niệm bất thối và tâm kiên cố là nền tảng của đại nguyện Bồ tát. Niệm bất thối là niệm mà vô niệm. Vô niệm mà tự niệm “niệm vô niệm, vô niệm nhi tự niệm”. Niệm này là niệm vi mật hiện tiền, không thể suy lường. Niệm bất thối luôn luôn đi với hạnh bất thối.

- Thứ ba là hạnh bất thối: Nghĩa là thực hành đạo Bồ tát. Tuy làm mọi việc trong vô số cảnh giới mà không hề rời bản tâm, rời đại nguyện, rời niệm bất thối. Niệm Kim cang nguyện, thực hành Kim cang hạnh không thể nghĩ bàn.

Đứng trên nhân thừa mà luận, thì hạnh bất thối là sự hành trì tinh tấn, miên mật với tâm tinh tấn dõng mãnh hướng tới Phật thừa.

Khi quý vị hành trì Bất thối Kim Luân thủ nhãn ấn pháp, thì từ nay cho đến khi thành tựu quả vị Phật, quý vị sẽ không còn thối chuyển. Nhưng quý vị phải tinh tấn hành trì!


 

Ngài Quán-Thế-Âm Bồ-tát.

 

Đây là đức Quán-Thế-Âm Bồ-tát kết duyên với chúng-sanh. Bồ-đề dạ bồ-đề dạ, Đấng chứng Giác-đạo, Giác-tâm, hiện Bất-thối-kim-luân-thủ-nhãn.

 

Từ Bi Hỷ Xả tứ vô lượng

Thị hiện  Thiện  tướng hóa quần manh

Nhiếp Thọ chúng sanh đăng bỉ ngạn

Hồi quang phản chiếu Quy Cố Hương.



 

47. Bồ-đà dạ bồ-đà dạ


Câu chú này với câu trước giống nhau, chỉ khác âm giữa Bồ-đà dạ. Hán dịch là “trí giả” và “tác giả”.

- Trí là hiểu biết chân chính, là trí huệ.
- Giác là sự tỉnh thức.

Người có được sự hiểu biết chân chính là người đã giác ngộ đích thực và có được trí huệ.

Đây là Đảnh thượng hóa Phật thủ nhãn ấn pháp. Chữ hóa Phật trong Dảnh thượng hóa Phật thủ nhãn ấn pháp chính là “giác giả”. Vị Bồ tát hành trì thành tựu Đảnh thượng hóa Phật ấn pháp cũng chính là “trí giả”. Cơ bản, “trí” và “giác” vốn chẳng khác nhau.

Giác là sự giác ngộ, là giai đoạn sau của cái biết tròn đầy chân thực.

T là cái biết toàn triệt, là giai đoạn trước của giác ngộ. Nếu quý vị tu tập Đảnh thượng hóa Phật ấn pháp thành tựu rồi thì quý vị sẽ là người có trí tuệ chân chính, là người đã tự mình giác ngộ rồi. Nếu quý vị tu tập ấn pháp này thì mười phương chư Phật sẽ liền đến xoa đầu thọ ký cho quý vị trong tương lai sẽ chứng được quả vị Phật.

Trong khi đang niệm Phật hoặc trì chú, hoặc tọa thiền, hành giả đôi khi có cảm giác là lạ trên đỉnh đầu, như thể có một loài côn trùng bò quanh đầu vậy, nhưng khi quý vị lấy tay sờ đầu thì thấy không có gì lạ. Tôi sẽ nói cho quý vị biết đó là gì. Lúc ấy, chính chư Phật trong mười phương đến xoa đầu thọ ký cho quý vị sẽ thành tựu Phật quả trong tương lai. Nhưng vì quý vị chưa có được thiên nhĩ thông nên không nghe được; vì chưa có được thiên nhãn thông nên quý vị không thấy được. Tuy vậy, chư Phật trong mười phương thực sự đã rời bổn độ du hành đến đạo tràng xoa đầu thọ ký cho quý vị. Thế nên nếu quý vị có phước duyên gặp được, thì đây là một cảm ứng xuất phát từ công phu hành trì của quý vị. Nhưng Quý vị không được khởi tâm mê đắm, hay ngã mạn mà nghĩ rằng: “À! Chư Phật vừa đến xoa đầu thọ ký hộ trì cho tôi”. Nếu quý vị khởi niệm vui mừng hay hãnh diện vì điều này cũng đều là chấp trước. Dù đây là triệu chứng tốt lành, mà khi quý vị đã khởi tâm đắm chấp rồi, thì cũng trở nên xấu.

Trong chương cuối của Kinh Thủ Lăng Nghiêm. Đức Phật trình bày rất nhiều cảnh giới, tất cả đều là cảm ứng xuất phát từ nỗ lực dụng công tu hành. Nhưng nếu hành giả nghĩ rằng mình đã chứng được cảnh giới vi diệu, thì hành giả trở nên bị chấp trước và liền lạc vào tà ma ngoại đạo, liền bị ma chướng. Do vậy, khi tu tập pháp này, quý vị phải tự an trú trong trạng thái “như như bất động”. Cho dù có gặp cảnh giới tốt hoặc xấu, cũng giữ tâm không dao động. Khi tâm không dao động, là quý vị có được định lực, trí tuệ sẽ phát sinh. Có trí tuệ chân chính, quý vị sẽ trở thành “trí giả” và “tác giả”.


 

Bổn-thân ngài A-Nan.

 

Đây là Bản-thân của ngài A-Nan. Bồ-đà dạ bồ-đà dạ, Đấng trí-giả, giác-giả, hiện Đảnh-thượng-hóa-phật-thủ-nhãn.

 

Quán Âm thị hiện xú ác hình

Chiết phục Cường Bạo cải tâm linh

Đồng chứng vô sanh Bát Nhã Trí

Hoàn nhập Ta Bà độ hữu tình.



48. Di đế rị dạ


Di đế rị dạ. Hán dịch là “ chánh lượng”. Cũng dịch là “đại lượng”; nghĩa là số lượng rất nhiều, không đếm được. Còn dịch là “đại từ bi tâm” nghĩa là tâm từ bi quá rộng lớn, không có ngằn mé. Tâm từ bi này bảo hộ che chở cho tất cả mọi loài chúng sanh và giúp cho họ được an vui, khiến cho chúng sanh thể nhập với bản tâm của mình, thoát khỏi sợ hãi và tránh xa mọi tai ương.

Đây là Tích trượng thủ nhãn ấn pháp. Trên đầu Tích trượng có chín vòng tròn bằng đồng. Lúc xưa, người xuất gia đi đâu cũng mang theo tích trượng. Mỗi khi đi đường, chín vòng kim loại này sẽ tạo nên âm thanh, báo động cho các loài côn trùng tránh xa để khỏi bị dẫm đạp lên mình. Tích trượng là một loại pháp khí trong Phật giáo. Bồ tát Địa Tạng thường dùng Tích trượng như là chìa khóa để mở cửa các địa ngục. Vì vậy nên hành giả tu tập ấn pháp này phải nuôi dưỡng lòng từ bi rộng lớn, phát nguyện cứu giúp cho toàn thể mọi loài chúng sanh.


Bổn-thân ngài Đại-Xa Bồ-tát.

 

Đây là Bản-thân ngài Đại-Xa Bồ-tát. Di đế rị dạ, Đấng đại lượng, hiện Tích-trượng-thủ-nhãn.

 

Từ bi thị hiện hóa ác nhân

Đắc đại an ổn mộng thần thanh

Cánh hoạch phước báo vô hữu tận

Bồ đề bát nhã tự hành thâm.



49. Na ra cẩn trì

 

Na ra cẩn trì. Hán dịch là “Hiền ái” hoặc là “Hiền thủ” cũng dịch là “Thiện hộ”, “Thiện đảnh”. Nghĩa là người đứng đầu trong các bậc Thánh hiền, họ là thượng thủ, là bậc khéo tìm cách bảo bọc, che chở cho chúng sanh, khéo độ thoát cho chúng sanh đến quả vị tối cao.

Đây là Tịnh bình thủ nhãn ấn pháp. Cũng gọi là Hồ Bình ấn pháp. Bình nước này có thể tẩy trừ mọi uế trược ở thế gian, cứu giúp chúng sanh thoát khỏi bệnh khổ. Bồ tát tu tập thành tựu ấn pháp này sẽ có năng lực hộ niệm cho toàn thể chúng sanh. Khi quý vị tu tập pháp ấn này thành tựu rồi, quý vị sẽ có khả năng cứu giúp mọi loài chúng sanh, giúp họ ngăn ngừa được mọi tai ương, chướng nạn. Nên còn được gọi là “Thiện hộ”, “Thiện đảnh”.


Ngài Long-Thọ Bồ-tát.

 

Đây là ngài Long-Thọ Bồ-tát. Na ra cẩn trì, Đấng hiền ái, hiền thủ, hiện Hồ-bình-thủ-nhãn.

 

Quán Âm thị hiện Long Thọ tôn

Phổ nhiếp quần cơ ly hỏa khanh

Phản bổn hoàn nguyên thành chánh giác

Vi trần phẫu xuất pháp giới kinh.



 50. Địa rị sắc ni na

 

Địa rị sắc ni na. Hán dịch là “Kiên lợi”. Còn có nghĩa là “Kiếm”. Đây là Bảo kiếm thủ nhãn ấn pháp. Trước đây khi giảng về bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp, tôi có nói rằng ấn pháp này có công năng hàng phục mọi loài ly, mỵ, vọng lượng. Khi quý vị tu tập thành tựu ấn pháp này rồi, tất cả các loài thiên ma ngoại đạo, ly mỵ vọng lượng đều ngoan ngoãn quy phục bởi vì họ sợ ấn pháp Bảo kiếm này của hành giả. Ấn pháp này rất oai hùng. Nếu có loài thiên ma ngoại đạo nào không tuân phục ấn pháp, hành giả có thể trừng phạt ngay bằng Bảo kiếm này.


Bổn-thân ngài Bảo-Tràng Bồ-tát.


Đây là ngài Bảo-Tràng Bồ-tát tay cầm cây Thiết-xoa. 
Địa rị sắc ni na, Đấng uy lực kiên cố sắc bén, hiện Bảo-kiếm-thủ-nhãn.

 

Hạng quải nhân đầu niệm linh văn

Thủ chấp Thiết-xoa nhật dạ tuần

Hoán tỉnh chúng sanh hành chư thiện

Khổ hải vô biên mạc trầm luân.



51. Ba dạ ma na


Ba dạ ma na có ba ý: Thứ nhất là “danh văn” nghĩa là tên của hành giả được lưu truyền khắp mười phương thế giới. Nghĩa thứ hai là “Hỷ xưng” là mười phương thế giới đều vui mừng khen ngợi công đức của hành giả. Thứ ba là “thành danh”, “nhất thiết nghĩa thành tựu”. Có nghĩa là mọi danh tiếng, mọi công hạnh đều được thành tựu thật nghĩa và rốt ráo.

Đây là Bảo tiễn ấn pháp. Nếu quý vị hành trì ấn pháp này thành tựu sẽ liền gặp được thiện hữu tri thức.


Bổn-thân ngài Bảo-Kim-Quang-Tràng Bồ-tát.

 

Đây là Bảo-Kim-Quang-Tràng Bồ-tát tay cầm cây Bạt-chiết-la. Ba dạ ma na, Đấng danh lành đồn khắp, hiện Bảo-tiễn-thủ-nhãn.

 

Bạt-chiết-la xử trấn quần ma

Liên hoa sổ châu niệm Phật đà

Lôi thanh kinh tỉnh si mê giả

Mộng giác nguyên lai nhất tự đa.



52. Ta bà ha

 

Trong chú Đại bi, câu Ta bà ha rất là quan trọng. Câu này được lặp lại đến 14 lần.

Ta bà ha. Hán dịch có 6 nghĩa. Bất kỳ chữ này xuất hiện ở bài chú nào cũng có đủ sáu nghĩa này.

Nghĩa thứ nhất là “Thành-tựu”. Khi trì niệm câu chú này, tất cả sở cầu, sở nguyện của hành giả đều được thành tựu. Nếu quý vị chưa có được sự cảm ứng khi hành trì, là do vì tâm chưa đạt đến sự chí thành. Nếu quý vị có tâm chí thành và có niềm tin kiên cố, thì chắc chắn sẽ được thành tựu. Nhưng chỉ cần móng khởi một chút tâm niệm không tin vào chú này, thì không bao giờ được thành tựu.

Nghĩa thứ hai là “Cát-tường”. Khi hành giả niệm câu chú này thì mọi sự không tốt lành, đều trở thành tốt lành như ý. Nhưng quý vị phải có lòng thành tín. Nếu quý vị có lòng thành tín hoặc nửa tin nửa ngờ khi trì chú này thì chư Bồ tát đều biết rõ. Vì thế nếu quý vị muốn mọi việc đều được đến chỗ thành tựu thì trước hết phải có niềm tin chắc thật. Ví như khi cha của quý vị có bệnh, muốn cha mình được khỏi bệnh thì quý vị phải hết sức thành tâm và chánh tín. Trì tụng chú này mới có cảm ứng.

Hoặc khi quý vị nghĩ rằng: “Từ lâu mình chưa được gặp người bạn thân. Nay rất muốn gặp anh ta”. Quý vị niệm chú này một cách chí thành, liền gặp bạn ngay. Hoặc quý vị nghĩ: “Ta chẳng có người bạn nào cả, muốn có người bạn tốt”. Quý vị trì chú này một cách thành tâm và liên tục, liền có được bạn lành, ngay cả gặp được thiện tri thức.

Nghĩa thứ ba của Ta bà ha là “Viên-tịch”.

Khi các vị Tỳ kheo xả bỏ báo thân hoặc nhập Niết bàn thì được gọi là “viên tịch”. Nhưng ở đây, chữ “viên tịch” không có nghĩa là chết. Chẳng phải niệm câu chú Ta bà ha là để cầu sự viên tịch. Thế thì công dụng của câu chú này là gì?

“Viên tịch” có nghĩa là “công vô bất viên”. Là công đức của hành giả hoàn toàn viên mãn; “đức vô bất tịch” là đức hạnh của hành giả đạt đến mức cao tột cực điểm. Chỉ có chư Phật và Bồ tát mới biết được công hạnh rốt ráo tròn đầy ấy chứ hàng phàm phu không suy lường được.

Nghĩa thứ tư là “Tức-tai”, nghĩa là mọi tai nạn đều được tiêu trừ.

Nghĩa thứ năm là “Tăng-ích”, là sự tăng trưởng lợi lạc của hành giả. Khi niệm câu Ta bà ha thì công hạnh đều được tăng trưởng, hành giả sẽ đạt được chỗ lợi lạc an vui.

Nghĩa thứ sáu của câu này, tôi thiết nghĩ trong quý vị ít có ai biết được. Vì trước đây tôi chưa từng nói bao giờ.

Ta bà ha có nghĩa là “Vô-trụ”. Nghĩa “Vô-trụ” này nằm trong ý nghĩa của câu “ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” trong Kinh Kim Cang.

Vô-trụ” nghĩa là không chấp trước, không vướng mắc hay bám chấp một thứ gì cả.

Tâm Vô-trụ là không có một niệm chấp trước vào việc gì cả. Không chấp trước nghĩa là tâm tùy thuận với mọi việc, thấy mọi việc đều là tốt đẹp. Đây chính là trường hợp: “Vô vi nhi vô bất vi” (không khởi niệm tác ý nhưng điều gì cũng được thành tựu). Vô-trụ chính là vô vi theo nghĩa ở trên, và vô vi chính là Vô-trụ.

Khi quý vị vừa móng khởi lên một niệm tưởng, đừng nên vướng mắc vào một thứ gì cả, đó là nghĩa thứ sáu của Ta bà ha. Quý vị đừng nên trụ vào các niệm tham, sân, si, mạn, nghi. Nếu quý vị có tất cả các tâm niệm trên thì phải nhanh chóng hàng phục chúng, chuyển hóa chúng để tâm mình không còn trụ ở một niệm nào cả. Hàng phục, chuyển hóa được những tâm niệm chúng sinh ấy gọi là Vô-trụ. Dùng cái gì để chinh phục chúng? Dùng Bảo kiếm ấn pháp này để hàng phục. Quý vị nói rằng tâm quý vị bị đầy dẫy niệm tham chế ngự. Tôi sẽ dùng Bảo kiếm này để cắt sạch. Nếu tâm quý vị có đầy ma oán, tôi cũng sẽ dùng Bảo kiếm này đuổi sạch. Nếu tâm quý vị bị ma si mê chiếm đoạt, tôi sẽ dùng kiếm trí huệ này chặt đứt chúng từng mảnh.

Tôi sẽ chặt đứt tất cả các loài ma ấy bằng Bảo kiếm Kim cang vương này, tức là dùng kiếm Trí huệ để hàng phục. Nếu quý vị muốn hàng phục thiên ma ngoại đạo thì trước hết quý vị phải chuyển hóa được mọi vọng tưởng của mình. Khi quý vị chuyển hóa được vọng tưởng trong tâm mình, thì thiên ma ngoại đạo cũng được hàng phục luôn, cho dù chúng có muốn đến để quấy phá, chúng cũng chẳng tìm được cách nào để hãm hại được cả.

Trên đây là 6 nghĩa của Ta bà ha

1. Thành-tựu

2. Cát-tường

3. Viên-tịch

4. Tức-tai

5. Tăng-ích

6. Vô-trụ

Bất luận câu chú nào dưới đây có chữ Ta bà ha đều mang đầy đủ sáu nghĩa trên.


Bổn-thân ngài Tam-Đầu-Thiện-Thánh.

 

Đây là Tam-Đầu-Thiện-Thánh ngồi kiết-dà trên mình con Ngại-Long. Ba dạ ma na, Ta bà ha, Xin cho mau Thành-tựu Bảo-tiễn-thủ-nhãn.

 

Tức tai Tăng phước diệu cát tường

Phật pháp Tăng bảo phóng hào quang

Quán hạnh Nhứt tâm vô tướng lễ

Thị đại Bồ đề hóa vạn phương.



53. Tất đà dạ

54. Ta bà ha

55. Ma ha tất đà dạ

56. Ta bà ha


Chữ Tất đà dạ có năm nghĩa: Thứ nhất là “Thành tựu đốn kiết”. Thứ hai là “thành biện”. Thứ ba là “thành lợi”. Thứ tư là “nhất thiết nghĩa thành tựu” và thứ năm là “sở cung xưng tán”.

"Thành tựu đốn kiết" nghĩa là khi sử dụng thần chú này, thì mọi sở cầu, sở nguyện của hành giả liền tức khắc (đốn) được an lành (kiết), toại nguyện.

Có người hỏi: “Tại sao tôi cũng trì chú Đại Bi, mà không được toại nguyện tức thì”? Vì sự trì niệm chú Đại Bi đòi hỏi phải có sự tương ứng từ nỗ lực dụng công. Nếu không có sự nỗ lực hành trì tương ứng, thì sẽ không có sự thành tựu. Nếu có sự cảm ứng, dung thông thì mọi sở cầu, sở nguyện của hành giả đều được thành tựu.

Tất đà dạ còn có nghĩa là “Thành biện”. Nghĩa là hành giả làm bất cứ việc gì thì kết quả đều đạt được viên mãn.

Cũng gọi là “Thành lợi” là vì mọi việc làm đều được thành tựu lợi ích.

"Nhất thiết nghĩa thành tựu" có nghĩa là làm bất kỳ việc gì cũng đều được thành tựu.

"Sở cung xưng tán" có nghĩa là mọi người đều đến khen ngợi, cung kính tán dương công đức của hành giả.


Bổn-thân ngài Xá-Lợi-Phất Bồ-tát.


Đây là ngài Xá-Lợi-Phất Bồ-tát với Ấn-liên-hoa-thủ, thông đạt tất cả pháp môn. Tất đà dạĐấng thành tựu sự Kiết-tường.

 

Mỹ diệu tướng hảo trang nghiêm thân

Thông đạt nhất thiết chư pháp môn

Phổ độ hữu duyên sanh Cực Lạc

Thường Tịch Quang độ chơn hựu chơn.


 

Bổn-thân ngài Hằng-Hà-Sa Bồ-tát.

 

Tiếp ý trên đây là Hằng-Hà-Sa Bồ-tát đứng trên đầu Cá-ngao dạo trong biển pháp vô biên. Ta bà haĐấng mau chóng Tròn-vẹn-vắng-lặng.

 

Hằng-Hà-Sa số chư Bồ-tát

Tủng lập Ngao đầu tiếu ha ha

Pháp hải uông dương vô bất độ

Chúng sanh dữ ngã ly tự tha.



Ma ha tất đà dạ. Ai cũng đều biết Ma ha có nghĩa là lớn. Câu chú này có nghĩa là hành giả đạt được mọi sự nghiệp to lớn, thành tựu được công đức thù thắng và đạo nghiệp viên mãn. Trong mọi việc, hành giả đều đạt được sự thành tựu viên mãn cao tột.

Cả hai câu chú hợp lại Tất đà dạ ta bà ha Ma ha tất đà dạ ta bà ha Bảo kinh thủ nhãn ấn pháp. Bảo Kinh là sự quý giá vô ngàn của Kinh điển, chính là Pháp bảo. Nếu quý vị tu tập ấn pháp này thì sẽ đạt được lợi lạc vô cùng vô tận. Trong tương lai, trí tuệ và sức ghi nhớ của quý vị sẽ rất tinh anh. Nghĩa là có được khả năng “bác văn cường ký”-nghe nhiều, nhớ kỹ.

Ký ức của chúng ta thường hoạt động theo một lối riêng. Cũng như không thể nào đi nếu không có cây gậy. Sau khi đọc được điều gì, chúng ta không thể nhớ rõ ràng hết được. Chỉ khi nào cần cho sự học tập của mình, chúng ta mới lục lại tìm kiếm hay tra cứu lại những ghi chép. Tại sao trí nhớ của mình lại quá kém. Vì quý vị chưa từng hành trì Bảo kinh thủ nhãn ấn pháp này. Nếu quý vị hành trì ấn pháp này, quý vị sẽ đạt được sự hiểu biết thông huệ và kiến thức rất đa dạng. Giống như Tôn giả A Nan, là đệ tử đa văn đệ nhất của đức Phật. Có thể nói Ngài A Nan đã hành trì Bảo kinh ấn pháp mà chẳng nghi ngờ gì. Ngài đã thành tựu ấn pháp này từ vô lượng kiếp rồi, nên khi nghe được điều gì, thì không còn quên nữa. Ngay cả Ngài có thể nhớ được những điều Ngài chưa từng nghe. Tại sao tôi nói như vậy? Vì Tôn giả A Nan ra đời cùng ngày đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành đạo. Như thế nên hai mươi năm trước, khi A Nan chưa xuất gia, thì những bài thuyết pháp của đức Phật Ngài A Nan chưa được nghe. Thế thì làm sao A Nan có thể kết tập toàn bộ Kinh điển sau khi đức Phật nhập Niết bàn? Vì A Nan được nghe các vị trưởng lão giảng lại những bài Kinh mà đức Phật đã thuyết từ trước, hoặc chính do đức Phật giảng lại cho A Nan nghe khi A Nan nhập định nên A Nan thừa biết rõ nguyên nhân của sự nhớ giỏi này là nhờ đã hành trì Bảo kinh thủ nhãn ấn pháp thành tựu.

Có người hỏi tôi: “Làm thế nào để có được trí nhớ tốt?” Câu trả lời đơn giản là hãy hành trì Bảo kinh ấn pháp. Những người nhớ được Kinh rõ ràng là có duyên với ấn pháp này.

Ở trong đồ hình mạn đà la, đây là ấn pháp Bồ tát phóng quang. Ngài phóng ra hào quang và tay cầm một tràng phan màu đỏ. Toàn thân Bồ tát phóng ra những luồng hào quang sáng chói biểu tượng cho sự khai mở trí huệ, sự cường ký, trí lực đa văn quảng kiến và công đức thành tựu viên mãn.


 

Bổn-thân ngài Phóng-Quang Bồ-tát.


Đây là ngài Phóng-Quang Bồ-tát tay cầm cây phướn đỏ.  Tất đà dạ ta bà ha Ma ha tất đà dạ ta bà ha, Đấng hiện Bảo-kinh-thủ-nhãn cho thành tựu đủ mọi pháp một cách rộng lớn.


Phóng đại Quang minh chiếu thế gian

Thai noãn thấp hóa ly đảo huyền

Cửu giới chúng sanh thành chánh giác

Thường lạc ngã tịnh phẩm tự cao.


 

Bổn-thân ngài Mục-Kiền-Liên Bồ-tát.

 

Đây là ngài Mục-Kiền-Liên Bồ-tát với cây Tích-trượng quảy Cà-sa. Ta bà haĐấng thành tựu sự Dứt-tai-nạn.


Thần thông biến hóa thuộc đệ nhất

Kim-tích-trượng cứu thế gian hy

Địa ngục chúng sanh mông ân thọ

Ly chư chướng nạn phát Bồ-đề.



57. Tất đà du nghệ

58. Thất bàn ra dạ

59. Ta bà ha


Tất đà. Hán dịch là “Thành tựu lợi ích”.

Du nghệ. Hán dịch là “Vô vi” hay còn gọi là “Hư không”.


Chư Thiên Bồ-tát

 

Đây là chư Thiên Bồ-tát đều tập họp lại, thọ thỉnh pháp, lợi lạc chúng sanh. Tất đà du nghệĐấng thành tựu Tâm-vô-vi như hư không.

 

Tùy loại hóa hiện độ chư Thiên

Đồng sự lợi hành tiếp hữu duyên

Xả kỷ vị nhơn chơn Vô-ngã

Thệ nguyện chúng sanh thành thánh hiền.



Thất bàn ra dạ. Hán dịch là “Tự tại”. 

Cả hai câu chú hợp lại Tất đà du nghệ Thất bàn ra dạ Bảo kiếp thủ nhãn ấn pháp. Hành giả thành tựu ấn pháp này có thể sử dụng lấy tất cả các thứ châu báo ẩn giấu trong lòng đất để làm lợi ích cho chúng sanh. Ý của câu chú này nói rằng ở nơi thể tánh mà thường được tự tại và thành tựu vô lượng công đức.

 

 

Ngài Quán-Thế-Âm tu pháp An-tức-hương.

 

Đây là An-tức-hương pháp tu của đức Phật A-Di-Đà và Bồ-tát Quán-Thế-Âm. Tất đà du nghệ, Thất bàn ra dạĐấng hiện Bảo-kiếp-thủ-nhãn thành tựu một cách tự tại.

 

Bồ-tát thị hiện Thiên nữ thân

Nhân cơ đậu giáo chỉ mê tân

Tuần tuần thiện dụ hối bất quyện

Từ bi bình đẳng nhiếp quần sanh.


Bổn-thân ngài A-Xà-Na Bồ-tát.


Ngài A-Xà-Na Bồ-tát tay cầm Bát đưa lên cao. Ta bà ha, Đấng thành tựu sự Tăng-ích.

 

Tiêu tai Miễn nạn trừ bệnh ma

Bảo bát Diệu dụng bất khả thuyết

Toại tâm Mãn nguyện Thí-vô-úy

Yết đế Yết đế Ta bà ha.



60. Na ra cẩn trì

61. Ta bà ha 


Na ra cẩn trì. Hán dịch là “ái hộ” nghĩa là thường nỗ lực bảo bọc che chở tất cả chúng sanh. Câu chú này cũng mang ý nghĩa đại Từ Bi.

Đây là Tịnh bình thủ nhãn ấn pháp. Cũng gọi là Hồ Bình ấn pháp.


Ngài Hải-Huệ Bồ-tát.


Đây là Bản-thân ngài Hải-Huệ Bồ-tát tay cầm Gươm vàng. Na ra cẩn trìĐấng hiện Tịnh-bình-thủ-nhãn. Cũng gọi là Hồ-Bình-thủ-nhãn, Đấng thành tựu sự diệu hiền đáng mến.

 

Vi trần Tướng hải vô lượng thân

Lục độ Vạn hạnh cần canh vân

Hồi tiểu Hướng đại Bồ-đề quả

Tự độ Hóa tha Bát nhã tâm.


Ngài Chiên- Đà-La Bồ-tát.

 

Đây là ngài Chiên- Đà-La Bồ-tát với chiếc nón quảy ngang vai. Ta bà haĐấng thành tựu pháp Vô-trụ.

 

Chủng nhân Kết quả thực thiện căn

Liễu sanh Thoát tử yếu tự cần

Dũng mãnh Tinh tiến Ba-la-mật

Ma ha Giác đạo diệu hành thâm.



62. Ma ra na ra

63. Ta bà ha


Ma ra. Hán dịch là “Như ý”

Na ra. Hán dịch là “Tôn thượng”.

Đây là Quyến sách thủ nhãn ấn pháp. Ấn pháp này có công năng mang lại sự an vui như ý đến cho hành giả, khiến cho các thứ bệnh tật, chướng nạn đều được tiêu trừ.

Quyến sách thủ nhãn ấn pháp có rất nhiều diệu dụng. Hành giả có thể kết một sợi dây ngũ sắc rồi hành trì quyến sách ấn pháp vào sợi dây ấy. Thành tựu rồi thì khi phóng sợi dây này ra, các loài yêu ma quỷ quái, ly mỵ vọng lượng đều bị trói chặt. Không thể nào chạy thoát được. Từ đó sẽ tìm cách giáo hóa cho các loài ấy hồi tâm hướng thiện. Đây là diệu dụng của ấn pháp này. Mới xem qua thì có vẻ bình thường nhưng công năng thật khó lường.

Trong đạo giáo gọi ấn pháp này là “Khổn tiên thằng”.


Bổn-thân ngài Bảo-Ấn-Vương Bồ-tát. 

 

Đây là ngài Bảo-Ấn-Vương Bồ-tát tay cầm cây kim-phủ (búa vàng). Ma ra na raĐấng hiện Quyến-sách-thủ-nhãn thành tựu sự Tôn-thượng Như-ý.

 

Bảo-Ấn thủ nhãn đại bồ tát

Kim phủ phách phá vô minh gia

Nhất thiết hữu tình phiền não đoạn

Tùng địa dũng xuất bảo liên hoa.


 


Ngài Câu-Hy-La Bồ-tát.


Đây là ngài Câu-Hy-La Bồ-tát mang dép gai đạp lên song phát ra tiếng Hải-triều-âm. Ma ra na ra, Ta bà ha, Đấng hiện Quyến-sách-thủ-nhãn thành tựu một cách Rõ-ràng.

 

Du hý Thần thông hóa tam thiên

Mang hài Đạp-lãng pháp vô biên

Phát hải Triều âm kinh mê mộng

Nhu phu Lập chí tham giả liêm.



64. Tất ra tăng a mục khê da

65. Ta bà ha


Tất ra tăng. Hán dịch là “Thành tựu-ái hộ”. Nghĩa là thường đem hết sức mình để bảo hộ che chở cho tất cả chúng sanh.

A mục khê da. Hán dịch là “Bất không, bất xả”.

Bất không có nghĩa là hữu. Nhưng đây có nghĩa là diệu hữu.

Bất xả có nghĩa là “Bất xả nhất pháp”. Không từ bỏ một việc gì, phải thông thạo tất cả các pháp. Nên có câu kệ:

“Chân như lý thượng bất lập nhất trần.
Phật sự môn trung bất xả nhất pháp”.

Nghĩa là:

“Trên phương diện bản thể, lý tánh tức chân như, thì không cần lập một thứ gì nữa cả, dù chỉ là hạt bụi.

Nhưng về mặt sự tướng, có nghĩa là việc hành trì, tu đạo thì không được bỏ qua một pháp nào cả”.

A mục khê da  còn có nghĩa nữa là “Ái chúng, hòa hợp”. Nghĩa là thương yêu, hòa hợp, thường cứu giúp tất cả chúng sanh.

Câu chú này còn có nghĩa khác là trong tự tánh của mỗi chúng sanh đều có đủ tánh tự tại và tánh công đức thường vẫn tròn đầy.

Đây là Phủ việt thủ nhãn ấn pháp. Khi hành trì ấn pháp này thành tựu, hành giả có thể tránh được nạn tù tội, bất kỳ nơi đâu, bất kỳ mọi lúc, hành giả đều không bị vướng phải các chướng nạn về quan quyền nữa.

Quý vị sẽ hỏi: “Nếu tôi tu tập ấn pháp này, liệu tôi có thể phạm pháp mà vẫn không bị bỏ tù hay sao?”

Không! Là Phật tử, quý vị không được phạm pháp. Nếu quý vị đã thông hiểu Phật pháp và phát tâm tu học Phật pháp rồi, thì làm gì có chuyện phạm pháp nữa? Còn nếu quý vị làm chuyện phạm pháp, tất nhiên phải bị bắt và ở tù.

Tuy nhiên, đôi khi có những người vô tội bị bắt ở tù. Đây là vì họ chưa bao giờ tu tập Phủ việt thủ nhãn ấn pháp này.


Bổn-thân ngài Dược-Vương Bồ-tát.

 

Ngài Dược-Vương Bồ-tát mang thuốc trị các thứ bịnh. Tất ra tăng a mục khê daĐấng hiện Phủ-việt-thủ-nhãn, Xin thương xót hộ trì Chẳng-xót Chẳng-bỏ.

 

Hóa hiện Dược-Vương đại Bồ-tát

Trừ “Ôn” diệt “Dịch” cứu hằng sa

Phổ lịnh hữu tình ly tật khổ

Cam lộ biến sái hàm thức nha.


Bổn-thân ngài Viên-Mãn Bồ-tát.


Ngài Viên-Mãn Bồ-tát mặc áo đỏ lộ đôi bàn tay Mẫu-đa-la. Tất ra tăng a mục khê da, Ta bà ha, Đấng hiện Phủ-việt-thủ-nhãn khiến mau Thành-tựu.

 

Quán hạnh Khởi tu lễ Pháp vương

Phước huệ Trang nghiêm diệu đạo tràng

Nhược năng Chứng đắc thâm Bát-nhã

Độ chư Khổ ách ngộ chơn thường.



66. Ta bà ma ha a tất đà dạ

67. Ta bà ha 


Như quý vị đã biết, thế giới chúng ta đang sống là thế giới Ta bà. Ta bà có nghĩa là “kham nhẫn”. Còn được dịch là “nhẫn ái”. Còn dịch là “Thiện thuyết, thiện đáo”.

Kham nhẫn có nghĩa là chúng sanh như chúng ta khó có thể chịu đựng nổi những sự thống khổ ở cõi giới Ta bà này.

Nhẫn ái có nghĩa là chúng sanh thế giới Ta bà này không những có thể chịu đựng mọi khổ đau mà còn sanh khởi lòng thương yêu mọi loài nữa.

Thiện thuyết, thiện đáo nghĩa là, luôn luôn nói lời tốt đẹp, lợi ích khi ở trong thế giới Ta bà. Cùng khuyến khích mọi người hiện thân đến ở cõi giới Ta bà này.

Ma ha là lớn. Đây có nghĩa là pháp Đại thừa, tức là Bồ tát đạo.

A tất đà dạ. Hán dịch là “vô lượng thành tựu”. Nghĩa là tu tập pháp Đại thừa của hàng Bồ tát có công năng đưa hành giả đến bờ bên kia một cách rốt ráo và thành tựu vô lượng công đức.

Đây là Bồ đào thủ nhãn ấn pháp. Khi quý vị tu tập thành tựu ấn pháp này thì trong miệng hành giả thường có vị ngọt của nho, còn hơn vị ngọt của đường. Quý vị hãy chú ý điểm này, trong khi hành trì ấn pháp này mà thấy trong miệng có vị ngọt nghĩa là bắt đầu có sự cảm ứng. Khi thành tựu ấn pháp này rồi, khi quý vị có trồng trọt các loại nông sản, ngũ cốc, thì sâu bọ côn trùng không thể phá hoại mùa màng của quý vị. Còn các loại cây ăn quả như cam, đào, hạnh, lê, … sẽ sinh trưởng rất nhanh và có vị ngọt khác thường. Công năng của Bồ đào ấn pháp này rất lớn và sự thành tựu của pháp Đại thừa là vô lượng vô biên.

Tất ra tăng a mục khê da. Ở trong đồ hình mạn đà la là hình ảnh biểu tượng cho bổn thể của Dược Vương Bồ tát, người đã dùng vô số phương tiện, dược liệu để chữa bệnh cho chúng sanh.

Ta bà ma ha a tất đà dạ là bổn thể của Bồ tát Dược Thượng, người cũng thường dùng vô số phương thuốc để chữa lành bệnh cho chúng sanh.


 

Bổn-thân ngài Dược-Thượng Bồ-tát.


Ngài Dược-Thượng Bồ-tát trị các thứ bịnh. Ta bà ma ha a tất đà dạ, Đấng Kham-nhẫn ban rải pháp đại thừa đủ vô lượng sự thành tựu, 
Đấng hiện Bồ-đào-thủ-nhãn.

 

Hằng thuận chúng sanh giáo Ta-bà

Ngũ Trược Ác Thế hóa quần ma

Sa lý đào kim Cầu Hiền khát

Thủy trung lao nguyệt Bất Bì Chuyết.


Bổn-thân ngài Đại-trí Xá-Lợi-Phất Bồ-tát.

 

Ngài Xá-Lợi-Phất quải chơn-kinh thắng nghĩa hóa độ chúng sanh. Ta bà ma ha a tất đà dạ, Ta bà haĐấng hiện Bồ-đào-thủ-nhãn khiến cho Thành-tựu.

 

Vô tự Chân kinh quải thân biên

Trí như Đại hải định như sơn

Giới đức Viên minh Quang-biến-chiếu

Phổ nhiếp Quần cơ độ hữu duyên.


 

68. Giả kiết ra a tất đà dạ

69. Ta bà ha

 

Giả kiết ra a tất đà dạ. Hán dịch là “Kim cang luân”. Còn gọi là Kim cang Bạt chiết la. Kim cang luân này có hình tròn nhưng có khác so với Kim cang luân khác. Câu chú này còn có nghĩa là “Hàng phục oán ma”. Khi trong tâm luôn luôn sinh khởi xung khí và bất bình thì gọi là Ma. Khi ấy họ thường phê phán mọi điều. Họ nói “Chư Phật thường làm những việc sai trái, cho đến hành Bồ tát, A la hán, chư Thiên, Diêm Vương cũng đều như thế”. Họ phản đối kịch liệt và hằn học đối với tất cả mọi điều. “Tất cả đều là tà vạy”. Họ giống như kẻ cuồng si, chẳng để ý gì đến pháp luật nữa. Họ luôn xung khắc với toàn cả thế gian. Trong nhân gian gọi loại người này là điên cuồng. Trong hàng quỷ thần thì hạng người này được gọi là Ma. Nộ khí của loài ma oán này thường xông khắp cõi Trời. Nó thường giận dữ: Ai cũng đều quá vô lễ với ta!”. Hoặc nó nói: “Phật hả? Ta sẽ đánh bại ngay. Bồ tát hay A la hán ta cũng hạ gục luôn. Còn loài người, ta sẽ ăn thịt hết. Ma quỷ thì ta sẽ chà nát dưới gót chân. Ta sẽ xé nát thân chúng ra cho đến chết!” Oán khí loại ma này thật ghê rợn.

Đây là Bạt chiết la thủ nhã ấn pháp. Với Kim cang luân, hành giả có thể đập tan các loài thiên ma ngoại đạo, quỷ thần thành từng mảnh vụn. Bất luận đó là loại ma nào, nó đều bị thu phục và vâng lời khi hành giả dùng Kim cang luân để thi hành ấn pháp này. Ma oán sẽ cung kính đảnh lễ hành giả và thưa: “Con nguyện quy phục ấn pháp. Nguyện theo mọi quy luật, không dám xâm hủy”.

Kim cang luân ấn pháp không những chỉ có công năng hàng phục thiên ma ngoại đạo, mà còn có công năng phát ra âm thanh chấn động. Đạo giáo gọi âm thanh này là “Ngũ Lôi Oanh Đảnh”.

Sấm sét vốn thường phát sinh từ trên Trời, nhưng các Đạo sĩ Lão giáo có thể phóng ra tiếng sấm từ lòng bàn tay khi họ kết một loại ấn gọi là Chưởng tâm lôi. Tiếng sấm sét vang ra khiến cho thiên ma bị chấn động, thậm chí còn có thể khiến thịt da nó bị tan tành từng mảnh.

Khi giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tôi có nói về một người bạn thân, có khả năng sử dụng được ấn pháp này. Khi quý vị hành trì thành tựu ấn pháp này rồi, thì sấm sét sẽ vang rền khi quý vị sử dụng ấn pháp và tiếng vang của nó sẽ hàng phục được tất cả các loài ma oán.

A tất đà dạ. Hán dịch là “Vô tỷ thành tựu”. Hành giả trì chú này sẽ được thành tựu công đức rất lớn; không có gì so sánh được, cho nên mới khiến cho các loài ma oán đều quy đầu phục thiện.


 

Bổn-thân ngài Kiếu-Hám Thần-tướng.


Đây là ngài Kiếu-Hám Thần-tướng tay cầm cây búa. Giả kiết ra a tất đà dạ, Đấng thành tựu không sánh ví như Kim-cang-luân, Hiện Bạt-chiết-la-thủ-nhãn.

 

Sắc thân tam muội hiện tam thiên

Kiến tướng văn danh thoát vô gián

Liễu sanh đại pháp đăng bỉ ngạn

Hàm mông nhiếp thọ giác vương tiền.



Chư Thiên-ma-vương.

 

Đây là chư Thiên-ma-vương tay cầm cây xà thương. Giả kiết ra a tất đà dạTa bà haĐấng khiến mau Thành-tựu Bạt-chiết-la-thủ-nhãn.

 

Tu đạo Hành giả mạc tự khi

Yểm nhĩ Đạo linh thậm bất nghi

Khai hoa Nan kết chơn thật quả

Quang âm Không quá thái khả tích.



70. Bà đà ma yết tất đà dạ

71. Ta bà ha

 

Bà đà ma. Hán dịch là “Hồng liên hoa”.
Yết tất đà dạ. Hán dịch là “Thiện trắng”.

Hồng liên hoa này là siêu việt tất cả mọi loài và thành tựu vô lượng công đức. Khi quý vị tu tập Hồng liên hoa thủ nhãn ấn pháp này thành tựu rồi, nếu quý vị muốn sanh ở cõi Trời thì ước nguyện ấy rất dễ thành tựu như ý.

Ngài Linh-Hương-Thiên Bồ-tát.

 

Đây là ngài Linh-Hương-Thiên Bồ-tát tay bưng lò hương Như-ý. Bà đà ma yết tất đà dạ, Đấng thành tựu mọi sự lành tốt như hoa sen-hồng, Hiện Hồng-liên-hoa-thủ-nhãn.


Bồ tát vô sự qua công tác

Tọa bảo liên hoa phóng quang minh

Thọ chư chúng sanh đại giác ký

Viên mãn niết bàn chứng vô dư.



Bổn-thân ngài Tán-Hoa-Thiên Bồ-tát.


Ngài Tán-Hoa-Thiên Bồ-tát rưới hoa sen ngàn cánh. Bà đà ma yết tất đà dạTa bà haĐấng khiến mau Thành-tựu Hồng-liên-hoa-thủ-nhãn.

 

Thiên-nữ Tán-hoa cúng hành nhân

Nghiêm trì Giới luật diệu thông thần

Cánh năng Hồi quang Quán-tự-tại

Bất cửu Đương khế Đại giác tôn.



72. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ

73. Ta bà ha


Na ra cẩn trì. Hán dịch là “Hiền thủ”.
Hiền là thánh hiền.
Thủ là giữ gìn, canh giữ hộ trì.


Bàn đà ra dạ dịch nghĩa là Quán Thế Âm, Quán Tự Tại.


Đây là Thí vô úy thủ nhãn ấn pháp mà Bồ tát Quán Thế Âm thường dùng để cứu độ chúng sanh, giúp cho mọi loài không còn sợ hãi trong mọi lúc, mọi nơi.


Bổn-thân ngài Phú-Lâu-Na Bồ-tát.

 

Ngài Phú-Lâu-Na Bồ-tát tay bưng bình-bát. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, Đấng Hiền-thủ Thánh-tôn, Hiện Thí-vô-úy-thủ-nhãn.

Tiểu trung hiện đại vô ngại thân

Đông tây nam bắc nhậm tung hoành

Tam thiên thế giới duy nhất niệm

Nhĩ ngã tha tâm bất khả phân.



Bổn-thân ngài Đà-La-Ni-Tử Bồ-tát.

 

Ngài Đà-La-Ni-Tử tay bưng mâm quả. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạTa bà ha, Đấng Khiến mau Thành-tựu Thí-vô-úy-thủ-nhãn.

 

Lễ bái Cúng dường yếu kiền thành

Hương hoa Đăng quả nhật nhật tân

Chơn Tâm Tu hạnh ly chư tướng

Tam luân Thể không xuất mê tân.



74. Ma bà lỵ thắng yết ra dạ

75. Ta bà ha


Ma bà lỵ thắng. Hán dịch là “Đại dõng”, cũng dịch là “anh hùng đức”, nghĩa là đức hạnh của bậc đại anh hùng. Bồ tát Quán Thế Âm cũng được gọi như thế.

Yết ra dạ. Hán dịch là “sinh tánh” hoặc là “bổn tánh”. Nghĩa là tự tánh bản hữu của chúng sanh vốn sẵn có đức hạnh của bậc đại anh hùng. Đức hạnh của đại anh hùng chính là do hành trì Tổng nhiếp thiên tý thủ nhã ấn pháp, ấn pháp này có công năng hàng phục mọi loài ma oán không chỉ ở thế giới này mà khắp cả đại thiên thế giới.

Hành giả tu tập ấn pháp này nên biết đây là ấn pháp quan trọng nhất trong tất cả bốn mươi hai ấn pháp. Vì khi hành trì ấn pháp này, thì tất cả bốn mươi hai ấn pháp kia đều có đủ trong ấn pháp này.

Quý vị có thể thắc mắc: “Thế thì tôi chỉ cần hành trì một ấn pháp này thôi cũng đủ, chẳng cần hành trì bốn mươi mốt ấn pháp kia nữa”.

Nếu quý vị lười biếng thì cứ làm. Nếu không phải là kẻ lười biếng, thì nên hành trì tất cả bốn mươi hai ấn pháp. Mặt khác, quý vị muốn làm kẻ lười biếng và thích tu tập để trở thành một vị Bồ tát lười thì cứ tu tập ấn pháp cuối cùng này trong bốn mươi hai ấn pháp kia. Sẽ phải mất khá nhiều thời gian mới thành tựu được. Tuy nhiên, vì quý vị là người lười biếng nên sẽ không được thành tựu sớm là điều hiển nhiên. Thế nên các pháp đều là bất định. Nếu quý vị không muốn trở thành một vị Bồ tát lười, quý vị sẽ chẳng bận tâm thời gian lâu hay mau để tu tập các ấn pháp này.


Lời bàn:


Luận cho cùng mỗi Thủ-nhãn hàm đủ công năng của 42 Thủ-nhãn, song đó là ứng dụng của bậc trình độ cao siêu. Còn với bậc sơ cơ non kém, thật ra vẫn có sự sai biệt. Ví như bậc Tổ Sư về võ, dù sử dụng côn, chùy, kiếm, sự lợi hại vẫn đồng như nhau. Nhưng với hạng võ nghệ thông thường thì tác dụng của ba môn binh khí kia lại có sai biệt. Nếu chẳng thế, trong võ lâm cần chi bày ra ba môn ấy cho thêm phiền!?


 

Ngài Tam-Ma Thiền-Na Bồ-tát.


Đây là ngài Tam-Ma Thiền-Na Bồ-tát ngồi kiết-dà với đôi tay Luân-chưởng-bảo-đăng. Ma bà lỵ thắng yết ra dạ
, Đấng sanh tánh, bảo tánh đủ đức đại hùng đại lực, Hiện Tổng-nhiếp-thiên-tý-thủ-nhãn.

 

Thiên Thủ Thiên Nhãn đại từ bi

Phổ hóa tam giới độ chúng hồi

Chư thiên ma vương giai thọ thủ

Cải ác hướng thiện Tốc Lai Quy.


Bổn-thân ngài Đại Ca-Diếp Bồ-tát.

 

Ngài Đại Ca-Diếp tay cầm tràng-hạt. Ma bà lỵ thắng yết ra dạTa bà ha, Đấng khiến cho đều Thành-tựu Tổng-nhiếp-thiên-tý-thủ-nhãn.

 

Lễ nhi Vị lễ Tu vô tu

Không mẫn Sở không Hữu hà cầu ?

Khán phá Phóng hạ Chơn tự tại

Tiêu diêu Pháp giới Nhậm du du.

 


76. Nam-mô hắt ra đát na đa ra dạ da


Câu này đã được giảng rõ ở phần đầu Kinh văn rồi. Nhưng có trường hợp quý vị bị quên, nên tôi sẽ giảng lại lần nữa. Những người tuy có nhớ, nhưng không được rõ ràng, nghe lại lần này sẽ được rõ thêm. Những người đã nhớ kỹ rồi, nghe được một lần này nữa lại càng hiểu sâu hơn.

Nếu tôi giảng chưa rõ, quý vị cứ hỏi tôi ngay tức khắc, vì cách tôi giảng Kinh hoàn toàn khác với các Pháp sư. Tôi không dùng tài liệu hoặc các luận giải.

Nam-mô có nghĩa là “Quy y”. Quy y gì? Con xin quy y Tam bảo.

Hắt ra đát na có nghĩa là “bảo”: quý báu.

Đa ra dạ dịch là “Tam”: ba

Toàn câu nghĩa là con nguyện quy y Tam bảo. Con nguyện đem cả thân tâm tánh mạng để quy y. Như những Phật tử tại gia đã quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Đó là quy y Tam bảo.

Quy y Tam bảo tức là quy y với toàn thể chư Phật trong ba đời, khắp cả mười phương, cùng tận hư không pháp giới. Cũng tức là quy y với tất cả pháp trong ba đời, mười phương, cùng tận hư không pháp giới. Cũng chính là đem hết thân tâm tánh mạng quy y với tất cả các bậc Hiền thánh tăng trong ba đời, mười phương, cùng tận hư không pháp giới.

Hư không, chẳng bao giờ cùng tận. Tất cả các cõi nước đều nằm trong pháp giới này. Có tất cả mười pháp giới, trong đó bốn cõi giới của các bậc Thánh Hiền và sáu cõi giới của chúng sanh phàm phu. Bốn cõi giới của bậc Hiền Thánh là: Phật, Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác.

Sáu cõi giới phàm phu là: Trời, người, A tu la, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục.

Mười phương là: Bắc, Đông, Nam, Tây, Đông Bắc, Tây Bắc, Đông Nam, Tây Nam, đó là tám. Thêm phương trên và phương dưới tất cả là mười.

Ba đời là quá khứ, hiện tại, vị lai. Chúng ta quy y với Phật bảo trong suốt khắp mười phương ba đời. Những lời đức Phật dạy được gọi là Pháp bảo. Tam tạng Kinh điển được diễn đạt qua mười hai phần Kinh văn. Tất cả Kinh điển do đức Phật nói ra được gọi là Pháp bảo. Pháp bảo không chỉ hiện hữu và lưu hành trong nhân gian mà còn lưu hành khắp cả hư không và pháp giới.

Khi nào quý vị có được ngũ nhãn, lục thông rồi thì quý vị mới thâm nhập được vào chân Kinh. Có nghĩa là quý vị đọc được “vô tự chân Kinh”. Trong hư không, bất kỳ lúc nào thích, quý vị đều đọc được chân kinh mà không cần hở môi. Lục Tổ đã từng nói:

“Khi mê Pháp Hoa chuyển
Khi ngộ chuyển Pháp Hoa”.

“Vô tự” không có nghĩa là Kinh không có chữ. Mà chính là hàng phàm phu không thấy được chữ. Tuy nhiên, khi quý vị nhìn sâu vào hư không, quý vị có thể thấy được chư Phật đang tụng Kinh. Một số vị đang tụng Kinh Pháp Hoa, một số vị đang tụng Kinh Thủ Lăng Nghiêm và một số vị khác đang tụng Kinh Hoa Nghiêm. Chư Phật đều đang tụng Kinh và trì chú như thần chú Thủ Lăng Nghiêm. Chư Phật luôn luôn hành trì các thời khóa tụng ấy. Nhờ thế nên Pháp bảo được hiện hữu và lưu truyền suốt khắp tận hư không pháp giới.

Chúng ta cũng quy y Tăng bảo suốt cả ba đời, cùng tận hư không pháp giới. Thành phần nào tạo thành Hiền Thánh Tăng? Chính là các đại Bồ tát, các đại A la hán, các đại Tỳ kheo tăng.

Đa ra dạ có nghĩa là “tam”: ba. Chúng ta quy y với Tam Bảo trong suốt mười phương, ba đời cùng tận hư không pháp giới.

Da có nghĩa là “đảnh lễ”. Là quy y và cung kính đảnh lễ trước Tam Bảo.


Nên biết, hư-không sinh trong tâm ông, cũng như chút mây điểm trên vùng trời, huống nữa là các thế-giới ở trong hư-không.

Một người các ông phát-minh chân-lý, trở về bản-tánh, thì hư-không thập phương đó thảy đều tiêu-mất, làm sao, các cõi-nước hiện có trong hư-không ấy, lại không rung-động.

Các ông tu thiền-định, trau-dồi phép Tam-ma-địa, tâm được thông-suốt, ám-hợp với các vị Bồ-tát và các vị vô-lậu Đại-a-la-hán mười phương, thật sự vắng-lặng, thì tất-cả Ma-vương, quỷ-thần và loài trời, phàm-phu, đều thấy cung-điện mình không cớ gì đổ vỡ, đất-liền rung-động, các loài thủy-lục bay-nhảy, thảy đều kinh-sợ.

Phàm-phu tối-tăm, không rõ nên nghĩ-lầm; còn bọn kia đều được năm thứ thần-thông, trừ lậu-tận-thông, đương luyến-tiếc cảnh trần-lao, làm sao, lại để cho ông phá-hoại chỗ ở?

Vậy nên các loài quỷ-thần, thiên-ma, vọng-lượng, yêu-tinh, trong lúc ông tu phép Tam-muội, đều đến quấy-phá.



KINH THỦ LĂNG NGHIÊM 


Những kẻ tụng kinh tọa thiền ở nơi non sâu, đồng vắng, bị sơn tinh, tạp mị, các quỷ vọng lượng làm não loạn phá hoại, khiến cho tâm không an định, chỉ cần tụng chú này (Ðại-Bi-Tâm Ðà-Ra-Ni) một biến, các quỷ thần ấy thảy đều bị trói. Nếu hành giả có thể tụng trì đúng pháp, khởi lòng thương xót tất cả chúng sanh, lúc ấy ta sẽ sắc cho tất cả thiện thần, long vương, kim cang mật tích thường theo ủng hộ, không rời bên mình, như giữ gìn tròng con mắt hoặc thân mạng của chính họ. 


KINH ĐẠI BI TÂM ÐÀ RA NI





Bổn-thân ngài Hư-Không Bồ-tát.


Ngài Hư-Không Bồ-tát tay cầm hoa, ngồi trên gộp đá. Nam-mô hắt ra đát na đa ra dạ da, Xin quy mạng kính lễ Tam-bảo, lễ đấng Thánh-giả Quán-Tự-Tại ban pháp thành tựu mau chóng.

 

Chơn không Vi thể Huyễn sắc dụng

Quán sát Thế gian Cứu chư bệnh

Tùy cơ Cảm ứng Nan tư nghị

Ngã đẳng Manh si Đương quy mạng.



77. Nam-mô a rị da

 

Nam-mô. Hán dịch là “quy y”.

A rị da. Hán dịch là “Thánh giả”, cũng có nghĩa là “Thánh Hiền”.


Câu chú này thể hiện sự quy y với tất cả các Hiền Thánh Tăng.


Bổn-thân ngài Phổ-Hiền bồ tát.


Ngài Phổ-Hiền kiết-dà thiền-tọa trên lưng con bá-bảo hương-tượng. Nam-mô a rị da, Xin quy mạng  kính lễ Tam-bảo, lễ đấng Thánh-giả Quán-Tự-Tại ban pháp thành tựu mau chóng.

 

Hóa thân Phổ hiền Biến tam thiên

Già phu Tọa thượng Pháp vô biên

Bách bảo Luân chưởng Phá địa ngục

A-Di-Đà Phật trụ tây thiên.



78. Bà lô yết đế

 

Bà lô yết đế. Hán dịch là “Quán”.



Bổn-thân ngài Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-tát.


Ngài Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-tát ngồi trên con thanh-sư, ngón tay chỉ lên hư không. Bà lô yết đế, Xin quy mạng  kính lễ Tam-bảo, lễ đấng Thánh-giả Quán-Tự-Tại ban pháp thành tựu mau chóng.

 

Pháp vương Trường tử Văn thù tôn

Từ tâm Giáo hóa Ta-bà dân

Đồng nguyện Chứng đắc Vô lượng trí

Thường tịch Quang độ vạn Phật thôn.



79. Thước bàng ra dạ


Thước bàng ra da. Hán dịch là “tự tại”. Toàn câu Bà lô yết đế thước bàng ra d có nghĩa là Quán Tự Tại tức là Bồ Tát Quán Thế Âm.


Ngài Quán-Thế-Âm Bồ-tát

cầm đóa kim-liên ngàn cánh.

 

Hiểu lý “nhãn căn thọ sắc”. Thước bàng ra dạ, Xin quy mạng  kính lễ Tam-bảo, lễ đấng Thánh-giả Quán-Tự-Tại ban pháp thành tựu mau chóng.

 

Lão viết Ngũ sắc Sử mục manh

Quán âm Giải nhãn Ngộ chơn thường

Kim diệp Bảo liên Hào quang chiếu

Bổn lai Diện khổng phi da nương.



80. Ta bà ha


Bồ tát Quán Tự Tại đã thành tựu tất cả mọi công đức. Ta bà ha có nghĩa là thành tựu công đức vô lượng vô biên.


Ngài Quán-Thế-Âm Bồ-tát

duỗi cánh tay vàng.


Hiểu lý “tai phân biệt tiếng”. Ta bà ha, Xin quy mạng  kính lễ Tam-bảo, lễ đấng Thánh-giả Quán-Tự-Tại ban pháp thành tựu mau chóng.

 

Ty trúc Độ cách Mộc thạch kim

Bát âm Tề tấu Nhật nhật tân

Giải liễu Nhĩ căn Văn tự tánh

Thiên nhạc Minh không Bất-động-tâm.



81. Án! Tất điện đô


Nay phần kinh văn của thần chú đã được tụng rồi. Tiếp theo là phần chân ngôn. Thông thường có chữ Án! luôn luôn dẫn đầu cho phần chân ngôn này. Nên chữ Án! mang ý nghĩa “dẫn sinh nghĩa”.

Tất nghĩa là “thành tựu”.

Điện đô. Hán dịch là “ngã giới” là đạo tràng, lãnh thổ, cương vực của mình đã được kiết giới thành tựu. Phạm vi kiết đại giới là 800 do tuần (yojanas) và trung giới là 600 do tuần. Trong phạm vi đã được kiết giới này, hành giả thường được an lạc và yên tịnh, tất cả mọi công đức đều được thành tựu và bản nguyện đều được như ý.

Chẳng hạn như khi tôi đã kiết giới đạo tràng trong phạm vi địa hạt San Francisco (Cựu Kim Sơn) thì trong toàn bộ vùng này sẽ không xảy ra động đất hoặc những thiên tai khác. Vì các vị hộ pháp, thiện thần đều phải hộ trì cho nguyện lực của đạo tràng được thành tựu.

Phạm vi và ý nghĩa kiết giới lớn làm sao! Một hạt vi trần cũng rộng lớn bao la rồi. Vì một hạt vi trần của hành giả là bao hàm vô lượng vi trần vô lượng thế giới, và vô lượng vi trần trong thế giới cũng chỉ hàm ẩn trong một vi trần. Vì vậy, nếu một vi trần hoại diệt thì vô lượng vi trần đều hoại diệt. Một hạt vi trần tồn tại thì vô lượng vi trần cũng tồn tại. Đó là sự vi diệu của sự kiết giới.


Ngài Quán-Thế-Âm Bồ-tát

mở tay ngũ-luân.

 

Hiểu lý “ mũi ngửi các mùi”. Án! Tất điện đô, Xin đấng Bản-mẫu thành tựu khắp ngã giới.


Thọ trì Độc tụng Diệu-linh-văn

Gia bị Hộ niệm Các hành nhân

Tam thiên Thế giới Giai thị hiện

Quán âm Tỵ căn Giải vị trần.



82. Mạng đa ra

 

Mạn đa ra. Hán dịch là “đạo tràng”, cũng dịch là “Pháp hội”.

Nghĩa là đạo tràng của hành giả nhất định phải thành tựu. Pháp hội của hành giả nhất định phải thành tựu.


Ngài Quán-Thế-Âm Bồ-tát

sè bàn tay đâu-la-miên.

 

Hiểu lý “lưỡi nếm vị”. Mạng đa raĐấng nơi đạo tràng pháp hội nầy.

 

Trì chú Tụng kinh Chuyên nhất tâm

Cảm ứng Đạo giao Độ biến kim

Bồ tát Từ bi Thủy hiện nguyệt

Chúng sanh Giác ngộ Ly-vị-căn.


83. Bạt đà dạ


Bạt đà da dịch là “Toại tâm viên mãn”. Chẳng hạn như khi tôi muốn một vi trần không hoại thì nó sẽ không hoại. Nếu tôi muốn tất cả các vi trần không bị tan hoại thì các vi trần ấy sẽ kết hợp lại với nhau. Khi tôi niệm Án! Tất điện đô, mạng đa ra, bạt đà dạ, ta-bà ha với tâm nguyện sẽ không có nạn động đất xảy ra ở San Francisco (Cựu Kim Sơn), hoặc nếu có nạn động đất lớn thì nạn ấy biến thành nhỏ, nạn nhỏ thì biến thành không có. Nhờ vậy nên không có nạn động đất, không có ai sợ hãi. Thế nên gọi là sự thành tựu. Tùy theo tâm nguyện mà đều được như ý (toại tâm viên mãn). Nếu quý vị có niềm tin chí thành, thì thấy rất là màu nhiệm. Còn nếu quý vị không tin, là vì quý vị chẳng thích thú gì với những điều mầu nhiệm như trên.


Ngài Quán-Thế-Âm Bồ-tát

tay bưng bát hương.

 

Hiểu lý “thân căn thọ xúc”. Bạt đà dạĐấng khiến cho con tùy tâm.

Pháp giới Hư không Thiên ngoại thiên

Vi trần Sát hải Tận bao hàm

Hữu duyên Vô duyên Đồng hóa độ

Tín thọ Phụng hành tức Thánh-hiền.



84. Ta-bà ha.


Ta-bà ha dịch là “thành tựu”. Thành tựu điều gì? Thành tựu mọi thệ nguyện của hành giả. Bất luận quý vị phát tâm nguyện gì, quý vị sẽ đạt được như ý khi niệm Án! Tất điện đô, mạng đa ra, bạt đà dạ, ta-bà ha.

Những vị khi làm lễ thế phát xuất gia cũng trì niệm câu chú này. Có nghĩa là ước nguyện việc xuất gia tu học Phật pháp sẽ được như ý thành tựu viên mãn.

Đến đây thì Kinh Đại Bi Tâm Đà La NiChú Đại Bi đã được giảng giải xong. Nay tôi cũng đã giảng hết Bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp, đó là phần sau của Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni. Còn phần sau nữa là Khoa nghi hành trì, là phương pháp tu hành, nay tôi không nhắc lại nữa.

Năm trước, một số đệ tử có tâm nguyện được nghe giảng chú Đại Bi. Đến nay quý vị nghe giảng gần một năm. Pháp hội này được xem như thành tựu viên mãn.

Tôi nguyện rằng quý vị có phát tâm hành trì điều gì cũng được như ý, tất cả đều được Bạt đà dạ, ta-bà ha, tức là thành tựu viên mãn tâm nguyện của mình. Mỗi người có sự phát nguyện khác nhau, nên sự thành tựu cũng không đồng, nhưng đều viên mãn cả.

Nguyện cho tất cả Phật tử có duyên được nghe Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni này đều sớm thành tựu quả vị Phật, vì đây là ước nguyện của những người thâm tín chư Phật.

Một khi quý vị đã chứng được quả vị Phật tức là mọi việc đều “toại tâm mãn nguyện” rồi.


Án! Tất điện đô, mạng đa ra, bạt đà dạ, ta-bà ha.


Ngài Quán-Thế-Âm Bồ-tát

tay cầm tràng phan.

 

Hiểu lý “ý cần biết các pháp”. Ta-bà haĐấng được thành tựu sự mong cầu một cách tròn đầy mau chóng.


Danh viết Đại bi Đà-ra-ni

Tứ Thập Nhị Thủ thế gian hy

Thiện căn Quảng tích Phương năng ngộ

Bất tu thử Pháp thái khả tích.

 




Thiên-Thủ Thiên-Nhãn 

Quán-Thế-Âm Bồ-Tát Quảng-Ðại Viên-Mãn

 Vô-Ngại Ðại-Bi-Tâm Ðà-Ra-Ni


 

Nam-mô Ðại-bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát Ma-ha-tát

(3 lần)

 


Ðại-Bi-Tâm Ðà-Ra-Ni

 


Nam-mô hắc ra đát na đa ra dạ da.1

Nam-mô a rị da2, bà lô yết đế thước bác ra da3, Bồ-đề tát đỏa bà da4, ma ha tát đỏa bà da5, ma ha ca lô ni ca da6Án!7, tát bàn ra phạt duệ8, số đát na đát tỏa9.

Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da10, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà11.

Nam-mô na ra cẩn trì12, hê rị ma ha bàn đa sa mế13, tát bà a tha đậu thâu bằng14, a thệ dựng15, tát bà tát đa, na ma bà tát đa, na ma bà già16, ma phạt đạt đậu17đát điệt tha.18

Án, a bà lô hê19, lô ca đế20, ca ra đế21, di hê rị22, ma ha bồ-đề tát đỏa23, tát bà tát bà24, ma ra ma ra25, ma hê ma hê, rị đà dựng26, cu lô cu lô kiết mông27, độ lô độ lô, phạt xà da đế28, ma ha phạt xà da đế29, đà ra đà ra30, địa rị ni31, thất Phật ra da32, dá ra dá ra33.

Mạ mạ phạt ma ra34, mục đế lệ35, y hê di hê36, thất na thất na37, a ra sâm Phật ra xá-lợi38, phạt sa phạt sâm39, Phật ra xá da40, hô lô hô lô ma ra41, hô lô hô lô hê lỵ42, ta ra ta ra43, tất rị tất rị44, tô rô tô rô45, bồ-đề dạ bồ-đề dạ46, bồ-đà dạ bồ-đà dạ47, di đế rị dạ48, na ra cẩn trì49, địa rị sắc ni na50, ba dạ ma na51, ta bà ha52.

Tất đà dạ53, ta bà ha54. Ma ha tất đà dạ55, ta bà ha56. Tất đà du nghệ57, thất bàn ra dạ58, ta bà ha59. Na ra cẩn trì60, ta bà ha61. Ma ra na ra62, ta bà ha63. Tất ra tăng a mục khê da64, ta bà ha65. Ta bà ma ha, a tất đà dạ66, ta bà ha67

Giả kiết ra a tất đà dạ68, ta bà ha69. Bà đà ma yết tất đà dạ70, ta bà ha71. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ72, ta bà ha73. Ma bà lỵ thắng yết ra dạ74, ta bà ha75.

Nam-mô hắt ra đát na, đa ra dạ da76.

Nam-mô a rị da77, bà lô yết đế78, thước bàng ra dạ79, ta bà ha80.

Án! Tất điện đô81, mạng đa ra82, bạt đà dạ83, ta-bà ha84.

 

( Tụng mỗi ngày ít nhất là 5 lần 

Ðại-Bi-Tâm Ðà-Ra-Ni trở lên )



Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn 

Ấn-Pháp


Trời, A-Tu-La, Dạ-Xoa thảy
 Ai đến nghe pháp phải hết lòng
 Ủng-hộ Phật-Pháp cho thường còn
 Mọi người siêng tu lời Phật dạy
 Bao nhiêu thính-giả đến chỗ này
 Hoặc ở cõi đất hoặc trên không
 Nương theo chánh-pháp ngày đêm tu
 Xót thương người đời luôn cứu-hộ
 Cầu cho Thế-giới thường an-ổn
 Pháp-trí vô-biên lợi quần-sanh
 Tất cả tội-nghiệp đều tiêu trừ
 Dứt hẳn quả khổ vào viên-tịch
 Thường dùng giới-hương thoa vóc sáng
 Luôn gìn định-phục mặc che thân
 Hoa mầu trí-giác khắp trang-nghiêm
 Khắp xứ, khắp nơi thường an-lạc.



Nam-Mô Hộ-Pháp Chư-Tôn Bồ-Tát  Ma-Ha-Tát.





 BỘ-LÂM!

(BÚT-RUM!)

Comments

Popular posts from this blog