KINH THIÊN-THỦ THIÊN-NHÃN

QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT QUẢNG-ÐẠI VIÊN-MÃN

VÔ-NGẠI ĐẠI-BI-TÂM ÐÀ-RA-NI

 

Đời Đường, Sa-môn Dà-Phạm Đạt-Mạ người xứ Tây-Thiên-Trúc dịch 

 

III. PHẦN LƯU THÔNG


TRÌ CHÚ ĐẠI-BI và 42 THỦ NHÃN ẤN-PHÁP để LƯU THÔNG BỘ KINH NẦY



Đức Phật bảo ngài A Nan: 

- Ông nên dùng lòng trong sạch tin sâu mà thọ trì môn Đại Bi tâm đà ra ni này và lưu bố rộng ra trong cõi Diêm Phù Đề, chớ cho đoạn tuyệt. 

...

Đức Phật bảo ngài A Nan: - Thần chú (ĐẠI-BI) của Quán Thế Âm Bồ Tát nói ra đây, chân thật không dối.

Nếu muốn thỉnh Bồ Tát đến, nên tụng chú vào hương chuyết cụ la 21 lần rồi đốt lên (chuyết cụ la chính là an tức hương). 

...

Đức Phật lại bảo ngài A Nan: - Quán Thế Âm Tự Tại Bồ Tát có ngàn mắt ngàn tay, mỗi tay đều tiêu biểu cho hạnh tùy thuận các sự mong cầu của chúng sanh. Đó cũng là do tâm Đại Bi của vị Đại Sĩ ấy hóa hiện. 


(PC: Những chân ngôn sau đây, chỗ có vạch ngang dài là chữ đọc kéo hơi dài ra, chữ có ngang vắn là hai chữ đọc hiệp lại làm một, muốn cầu điều gì, đọc chân ngôn theo điều ấy). 


1. Nếu chúng sanh nào muốn được giàu lớn, có nhiều thứ châu báu, đồ dùng, nên cầu nơi tay cầm châu như ý

Chân ngôn rằng: Án-- phạ nhựt ra, phạ đa ra, hồng phấn tra.
 

...

Khi ấy, tất cả chúng hội, Bồ Tát Ma ha tát, Kim Cang mật tích, Phạm vương, Đế Thích, tứ đại thiên vương, thiên, long, quỷ thần, nghe đức Như Lai khen ngợi môn đà ra ni này xong, thảy đều vui mừng, y lời dạy mà tu hành. 

)


 KINH VĂN:


Ngài A Nan lại bạch Phật: - Bạch đức Thế Tôn! Vị Bồ Tát Ma Ha Tát, bộ chủ của thần chú này, tôn hiệu là chi, mà khéo nói môn đà ra ni như thế? 

Đức Phật bảo: - Vị Bồ Tát ấy hiệu là Quán Thế Âm Tự Tại, cũng tên là Nhiên Sách, cũng gọi là Thiên Quang Nhãn. 

Này thiện nam tử! Quán Thế Âm Bồ Tát thần thông oai lực không thể nghĩ bàn, trong vô lượng kiếp về trước từng thành Phật hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai. Vì nguyện lực đại bi, vì muốn làm duyên phát khởi cho tất cả các hàng Bồ Tát, vì muốn an vui thành thục cho chúng sanh, ngài mới giáng tích hiện làm Bồ Tát. Vậy ông và đại chúng, các hàng Bồ Tát, Ma Ha Tát, Phạm vương, Đế Thích, Long thần đều nên cung kính, chớ sanh lòng khinh mạn, xem thường. Nếu tất cả hàng trời, người thường xưng niệm, cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát, sẽ được vô lượng phước diệt vô lượng tội , mạng chung sanh về cõi nước của Phật A Di Đà. 

Đức Phật bảo ngài A Nan: - Thần chú của Quan Thế Âm Bồ Tát nói ra đây, chân thật không dối. Nếu muốn thỉnh Bồ Tát đến, nên tụng chú vào hương chuyết cụ la 21 lần rồi đốt lên (chuyết cụ la chính là an tức hương). 

Nếu kẻ nào bị loài ma mèo dựa vào phá khuấy, người thân thuộc nên tìm một bộ xương của con mèo đã chết, đốt tan ra tro, rồi hòa với đất bùn sạch, nắn thành hình mèo. Khi hoàn thành để hình ấy trước tượng Thiên Nhãn, tụng 108 biến chú Đại Bi vào lưỡi dao rồi chặt hình mèo thành 108 đoạn. Nên nhớ cứ mỗi lần tụng xong một biến thì chém xuống một đao, kêu tên loài ma mèo một lần. Làm như thế bịnh nhơn sẽ an lành, ma mèo vĩnh viễn không dám phá hoại. 

Nếu người nào bị chất độc của loài sâu cổ làm hại, thì thân nhơn mau dùng hương dược kiếp bố la hòa đồng phân với chuyết cụ la hương vào nước trong, sắc còn một chén. Xong, lại để chén thuốc ấy trước tượng Thiên Nhãn tụng chú 108 biến rồi cho bịnh nhơn uống, liền thấy an lành (dược kiếp bố la hương tức Long não hương). 

Nếu bị rắn rít cắn, dùng vị Càn cương tán thành mạt, tụng chú vào đấy 21 biến, rồi dấp lên vết thương, liền hết. 

Nếu bị kẻ thù mưu hại, nên dùng đất sạch, hoặc bột, hoặc sáp, nắn thành hình kẻ ấy. Xong, lại để hình nhơn trước tượng Thiên Nhãn, tụng vào lưỡi dao 108 biến Đại Bi, cứ tụng xong mỗi biến lại chém xuống một dao, kêu tên người kia một lần, rồi đem 108 đoạn hình đã chặt đốt tan. Y theo pháp thức như thế, kẻ oan gia thù nghịch sẽ đổi ra trạng thái vui vẻ, thân hậu đối với ta, trọn đời đôi bên quý mến lẫn nhau. 

Nếu bị bịnh đau mắt, hoặc mắt kéo màng đỏ, mắt trắng đục, hoặc quáng manh, hoặc hư tròng, không thấy được ánh sáng, nên dùng trái ha lê lặc, trái am ma lặc, trái bệ hê lặc, mỗi thứ một quả, đem nghiền, vắt lấy nước. Khi vắt nước nên ở chỗ vắng lặng, giữ cho sạch sẽ, miệng luôn niệm Phật, chớ để cho mèo, chó, gà, lợn cùng đàn bà mới sanh thấy. Vắt nước xong đem hòa với bạch mật, hoặc sữa người. Sữa này phải là của phụ nhơn sanh con trai, chứ không được dùng sữa của người sanh con gái. Khi hòa thành xong, đem chén thuốc để trước tượng Thiên Nhãn tụng chú 108 biến. Trì chú vào thuốc rồi, bịnh nhơn phải ở nơi nhà kín, tránh gió trong thời gian 7 ngày và dùng thuốc ấy nhỏ vào mắt. Làm như thế, tròng con mắt hư lại sanh, các chứng kia đều lành. Mắt thấy được tỏ rõ (P.C: Ba thứ trái này xứ ta không có, bịnh nhơn nên phương tiện thay 3 thứ trái khác hoặc 3 thứ thuốc khác có tánh cách trị bịnh đau mắt, nếu như chí thành, cũng được linh nghiệm). 

Nếu bị bịnh rét hoặc bị loài ma rét dựa, nên dùng da cọp hoặc da beo tụng vào đấy 21 biến chú, rồi phủ lên mình thì bịnh sẽ lành, ma cũng xa lánh. Như được da sư tử thì càng quý. 

Nếu bị rắn độc cắn, dùng chất ráy đóng trong lỗ tai của người bị cắn, tụng chú 21 biến, thoa vào vết thương, nọc rắn liền tiêu. 

Nếu bị bịnh rét dữ nhập tâm, hôn muội sắp chết, dùng một khối mủ cây đào, lớn ước lượng bằng trái đào, đem hòa với một chén nước trong, sắc còn nửa chén, tụng chú vào đấy bảy biến rồi uống, bịnh sẽ lành. Thuốc này chớ cho phụ nữ sắc. 

Nếu bị loài quỷ truyền thi, phục thi làm bịnh, dùng hương chuyết cụ la tụng chú 21 biến, đốt xông vào lỗ mũi. Lại lấy 7 khối hương lớn ước lượng bằng lóng tay cái, cũng gia trì chú 21 biến mà uống, bịnh sẽ lành. Nên nhớ: Bịnh nhơn phải kiêng rượu, thịt, ngũ vị tân (58) và mắng chửi. Một phương pháp nữa là dùng vị Ma Na Thi La hòa với Bạch giới tử và muối hột, gia trì chú 21 biến, rồi đem xông đốt dưới giường người bịnh, quỷ liền vội vã trốn chạy, không dám ở (Ma Na Thi La là vị thuốc Hùng Hoàng). 

Nếu bị tai điếc lùng bùng, tụng chú vào dầu mè, rồi nhỏ trong tai, bịnh sẽ lành. 

Nếu bị chứng thiên phong, xụi nửa thân mình, tai điếc, mũi không biết mùi, dùmg dầu mè sắc với vị Thanh Mộc Hương, gia trì chú 21 biến, rồi thoa nơi mình. Bịnh sẽ vĩnh viễn tiêu trừ. Lại một phương pháp nữa: dùng sữa ngưu tô thuần chất, tụng vào 21 biến chú mà thoa, bịnh cũng sẽ lành. 

Nếu phụ nhơn sanh sản khó, mau dùng dầu mà gia trì chú 21 biến, rồi thoa nơi rún và ngọc môn, liền được dễ sanh. 

Nếu phụ nhơn có nghén, thai nhi chết trong bụng, dùng một lượng thuốc A Ba Mộc Lợi Đà, đổ hai chén sắc còn một chén, gia trì chú 21 biến mà uống, thì cái thai liền ra, phụ nhơn không một chút đau đớn. Như thai y (nhau) không ra, cũng uống thuốc này (A ba mộc lợi đà là vị Ngưu Tất) 

Nếu bỗng nhiên đau nhói nơi tim chịu không kham, đây gọi là chứng độn thi chú, nên dùng hương Quân Trụ Lỗ, tụng chú vào 21 biến, rồi để trong miệng nhai nuốt không hạn nhiều ít, chừng nào mửa được mới thôi, y như thế bịnh sẽ lành, song nên nhớ phải cữ ngũ tân và rượu thịt (quân trụ lỗ là vị thuốc Huân Lục Hương). 

Nếu bị phỏng lửa thành ghẻ, dùng phân trâu đen tụng chú 21 biến mà thoa, bịnh sẽ lành. 

Nếu bị sên lải cắn, dùng nửa chén nước tiểu con ngựa kim, như bịnh nặng thì một chén, gia trì chú 21 biến, uống vào loài trùng sẽ quyện ra như sợi dây. 

Nếu bị bịnh ghẻ đinh dùng lá Lăng Tiêu đâm lấy nước, gia trì chú 21 biến mà thoa, thì ghẻ liền ra cồi mà lành. 

Nếu rủi bị con lằn cắn vào mắt, dùng phẩn mới của con lừa, vắt lấy nuớc, gia trì 21 biến chú, đợi ban đêm trước khi ngủ, nhỏ thuốc ấy vào, bịnh sẽ lành. 

Nếu bị đau bụng, dùng nước giếng trong nấu với 21 hột muốn lớn, còn nửa chén gia trì chú 21 biến uống vào, liền hết đau. 

Nếu bị bịnh đau mắt đỏ, mắt lồi thịt, mờ mịt không thấy, dùng lá xa xa di đâm lược lấy nước, gia trì chú 21 biến, rồi bỏ đồng tiền có meo xanh vào ngâm một đêm. Xong lại lấy ra, tụng thêm vào đấy 7 biến chú nữa. Dùng thuốc này nhỏ vào mắt, bịnh sẽ lành (Xa xa di là lá câu kỷ). 

Nếu người có tật ban đêm sợ hãi ra vào không yên, lấy chỉ trắng xe thành niệt, gia trì chú 21 biến, kết thành 21 gút buộc nơi cổ, thì tật ấy sẽ dứt. Chẳng những trừ được sự khủng bố mà cũng diệt được tội. 

Nếu trong nhà sanh nhiều tai nạn, dùng nhánh cây thạch lựu chặt thành 1.080 đoạn ước độ một tấc, mỗi đoạn 2 đầu đều thoa mật tô lạc. Kế đó, đem lò nhỏ để trước bàn Phật, cứ tụng xong một biến chú, liền đốt một đoạn. Khi thiêu hết 1.080 đoạn, tất cả tai nạn thảy đều tiêu trừ. 

Nếu ở các nơi đấu tranh, luận nghị, muốn được hơn người dùng cành bạch xương bồ gia trì chú 21 biến, đeo nơi cánh tay mặt, tất sẽ được toại nguyện. 

Nếu muốn được trí huệ nên dùng nhánh xa xa di, chặt thành 1080 đoạn, mỗi đoạn 2 đầu thoa sữa ngưu tô thuần chất và sữa ngưu tô hòa với bạch mật, cứ mỗi lần tụng chú lại đốt một đoạn. Nên nhớ trong một ngày đêm chia ra ba thời, mỗi thời tụng chú và đốt 1080 đoạn. Thật hành đúng 7 ngày, chú sư sẽ được trí huệ thông ngộ. (PC: Mỗi thời tụng 1080 biến tất là người tụng quá nhuần, và có định tâm nhiều). 

Nếu muốn hàng phục đại lực quỷ thần, dùng củi cây A rị sắc ca, thoa sữa tô lạc và mật vào, đem trước tượng Đại Bi gia trì, chú 49 biến, rồi đốt trong lửa (A rị sắc ca dịch là Mộc hoạn tử, cũng gọi là vô hoạn tử, một thứ cây có năng lực trừ tà, hạt của trái cây này có thể xỏ làm hạt chuỗi). 

Nếu lấy một lượng Hồ Lô giá na, đem đựng trong bình lưu ly, để trước tượng Đại Bi tụng chú 108 biến, rồi dùng thuốc ấy thoa trên trán và nơi thân, thì tất cả Thiên, Long, Quỷ Thần, người cùng loài phi nhơn trông thấy đều hoan hỉ (hồ lô giá na là vị Ngưu Hoàng). 

Nếu thân bị xiềng xích, dùng phẩn của con bồ câu trắng, gia trì chú 108 biến, tụng xong đem thoa vào tay chà lên gông xiềng, gông xiềng sẽ tự sút. 

Nếu vợ chồng bất hòa, trạng như nước lửa, dùng lông đuôi chim oan ương, đem trước tượng Đại Bi tụng chú 1.080 biến rồi đeo trong mình, tất vợ chồng trọn đời vui hòa, thương yêu nhau. 

Nếu lúa mạ hoặc các thứ cây trái bị sâu bọ cắn, dùng tro và cát sạch hòa với nước trong, gia trì 21 biến chú, rảy trên cây, trên mạ cùng bốn bên bờ ruộng, thì sâu bọ không dám phá hại. 

Đức Phật lại bảo ngài A Nan: - Quán Thế Âm Tự Tại Bồ Tát có ngàn mắt ngàn tay, mỗi tay đều tiêu biểu cho hạnh tùy thuận các sự mong cầu của chúng sanh. Đó cũng là do tâm Đại Bi của vị Đại Sĩ ấy hóa hiện. 


( P.C: Những chân-ngôn sau đây, chỗ có vạch ngang dài là chữ đọc kéo hơi dài ra, chữ có ngang ngắn là hai chữ đọc hiệp lại làm một. Muốn cầu điều gì, đọc chân-ngôn theo điều ấy). 



The Forty-Two Hands
With the commentary of
THE VENERABLE TRIPITAKA MASTER HSUAN HUA

Translated into English by
BHIKSHUNI HENG YIN
THE BUDDHISH TEXT TRANSLATION SOCIETY
SAN FRANCISCO
1976

Translated into Vietnamese by
The late Dharma Master THÍCH THIỀN-TÂM


42 Thủ Nhãn Ấn-Pháp




Do cố hòa thượng TUYÊN-HÓA , đã dùng “KỆ-TỤNG” giảng giải bằng TRUNG-VĂN.
TỶ KHƯU-NI HENG YIN  đã dịch ra ANH-VĂN.
Do cố hòa thượng THIỀN-TÂM đã dịch ra VIỆT-VĂN, trong KINH QUÁN ÂM ĐẠI-BI TÂM ĐÀ-RA-NI.









A VERSE IN PRAISE

of the Bodhisattva Who Regards the World’s Sounds



When hands and eyes that pierce the heavens and the great Dharani,
Shake the entire universe of three thousand worlds,
Those with and without affinities alike are gathered in taught,
As the universal compassion crosses over all in Jambudvipa.


NAMO THE VAST, GREAT, PERFECT, FULL, UNIMPEDED, GREAT COMPASSION HEART DHARANI OF THE THOUSAND-HANDED, THOUSAND-EYED BODHISATTVA WHO REGARDS THE WORLD’S SOUNDS






KỆ “XƯNG TÁN” BỒ-TÁT QUÁN-THẾ-ÂM
của hòa thượng TUYÊN HÓA




Thủ nhãn thông thiên đại tổng trì
Chấn động tam thiên thế giới thì
Hữu duyên vô duyên hàm nhiếp hóa
Từ bi phổ độ Diêm phù đề





Nam-mô Thiên-Thủ Thiên-Nhãn Quán-Thế-Âm Bồ-Tát Quảng-Ðại Viên-Mãn
Vô Ngại Ðại-Bi Tâm Ðà-Ra-Ni




1.   The As-You-Will Pearl Hand and Eye


The Sutra says: “For wealth, various gems, and valuables, use the As-You-Will Pearl

                        Hand.”



The Mantra: Mwo la mwo la

The True Words: Nan. Wa dz la. Wa dwo la. Hung pan ja.



The verse :


Pure incense from the Jeweled censer transforms three thousand.
The tortoise of Golden Wishes swims through nine abysses.
Good Wealth and the Dragon Girl laugh aloud!
Hurry and investigate Buddhism’s wonderful Dharma.




Như-Ý-Châu Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Nhứt

Ma Ra Ma Ra [25]
Án-- phạ nhựt ra, phạ đa ra, hồng phấn tra.



Kinh nói rằng: “Nếu Chúng-sanh nào muốn được giàu lớn, có nhiều thứ châu báu đồ

                      dùng, nên cầu nơi Tay cầm Châu-Như-Ý.”


Thần-chú rằng: Ma Ra Ma Ra [25]


Chơn-ngôn rằng: Án-- phạ nhựt ra, phạ đa ra, hồng phấn tra.


Kệ tụng :



Thanh hương bảo đỉnh hóa tam thiên 
Như ý kim ngao du cửu uyên 
Thiện Tài Long Nữ tiếu huyên huyên 
Phật giáo diệu pháp nhữ yếu tham.


[

Hương thanh tịnh từ LƯ-HƯƠNG tỏ ra ba ngàn đại thiên thế giới.
Con rùa vàng mong muốn bơi qua chín vực thẳm.
Thiện Tài, Long Nữ cười ha ha!
Mau lên tham cứu diệu pháp Môn.

]





2.   The Lariat Hand and Eye 

The Sutra says: “For seeking peace and tranquility in all unrestful situations, use the

                        Lariat Hand.”


The Mantra: Mwo la nwo la.

The True Words: Nan. Jr li lai la. Mwo nai la. Hung pan ja.


The verse :


The Lariat Hand is a demon-binding cord.
Strange ghosts and externalists find it hard to disappear,
For Krakuchanda’s  Dharma jewel has many transformations.
Drive out the deviant, support the proper.--These secret words are magic.


Quyến-Sách Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Hai

Ma Ra Na Ra [62]
Án-- chỉ rị lã ra, mô nại ra, hồng phấn tra.

  

Kinh nói rằngNếu bị các việc khuấy rối, muốn được an ổn, nên cầu nơi Tay cầm dây

                     Quyến-Sách.”


Thần-chú rằng: Ma Ra Na Ra [62]

Chơn-ngôn rằng: Án-- chỉ rị lã ra, mô nại ra, hồng phấn tra.


Kệ tụng :


Quyến sách thủ thị khổn ma thằng
Bàng môn quỉ quái nan độn hình
Câu lưu pháp bảo đa biến hóa
Trừ tà phù chánh bí văn linh.

[

Tay cầm dây QUYẾN-SÁCH để buộc loài ma.
Tà Môn qủi quái hiện nguyên hình.
Pháp bảo Câu lưu nhiều biến đổi.
Trừ tà ma hộ chánh pháp vừa “BÍ-MẬT” vừa “HIỂN-LINH”.


]




3. The Jeweled Bowl Hand and Eye


The Sutra says: “For all internal illnesses, use the Jeweled Bowl Hand.”

The Mantra: Hu lu hu lu syi li.


The True Words: Nan. Jr li jr li. Wa dz la. Hung pan ja.


The verse :


The Jeweled Bowl’s sweet dew can extricate you from,
Entanglements with eighty four thousand sickness demons.
The Bodhisattva Who Contemplates in Comfort can,
With universal compassion, save all with whom he has conditions.




Bảo-Bát Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Ba

Hô Lô Hô Lô Hê Lỵ [42]
Án-- chỉ rị chỉ rị, phạ nhựt-ra, hồng phấn tra.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn trị các thứ bịnh trong bụng, nên cầu nơi Tay cầm Bát-Báu.”


Thần-chú rằng: Hô Lô Hô Lô Hê Lỵ [42]


Chơn-ngôn rằng: Án-- chỉ rị chỉ rị, phạ nhựt-ra, hồng phấn tra.


Kệ tụng :


Bát vạn tứ thiên bệnh ma triền
Bảo bát cam lộ khả ly thuyên
Bồ đề tát đỏa tự tại quán
Từ bi phổ độ hóa hữu duyên.


[

Tám mươi bốn ngàn bệnh ác “MA” lâm thân,
Nước “Cam-lộ” trong BÌNH  “Bảo-bát” có khả năng tiêu trừ tất cả.
Quán-Tự-Tại Bồ-tát Ma-ha-tát,
Từ bi cứu độ người có duyên.

]



4. The Jeweled Sword Hand and Eye


The Sutra says: ”For subduing all wang liang ghosts and spitrits, use the Jeweled

                        Sword Hand.”


The Mantra: Di li shai ni now.

The True Words: Nan. Di shr di re. Du wei ning.
                           Du ti swo two ye. Hung pan ja.


The verse :


The light from the flying Jeweled Sword penetrates three threes,
Li mei and wang liang all heed the command.
The Dharma Realm’s strange energies from this are put to rest.
Propagating the Proper teaching, one crosses over heaven and earth.





Bảo-Kiếm Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Tư


Địa Rị Sắt Ni Na [50]

Án-- đế thế đế nhá, đổ vỉ nảnh,
                 đổ đề bà đà dã, hồng phấn tra.


Kinh nói rằng: “Nếu muốn hàng phục tất cả quỷ, thần, vọng, lượng, nên cầu nơi Tay

                      cầm Kiếm-Báu.”


Thần-chú rằng: Địa Rị Sắt Ni Na [50]

Chơn-ngôn rằng: Án-- đế thế đế nhá, đổ vỉ nảnh,
                                   đổ đề bà đà dã, hồng phấn tra.


Kệ tụng :


Bảo kiếm phi quang thấu tam tam
Ly Mỵ Vọng Lượng các tuân tuyên
Pháp giới yêu khí tòng tư tức
Hoằng dương chánh giáo độ càn khôn.


[

Bảo kiếm phóng quang khắp “TAM TAM”,
“Ly Mỵ Vọng Lượng” y theo lệnh của NGƯỜI cầm Bảo kiếm.
Pháp giới nhờ “QUANG MINH” soi đến, nên yêu khí được tiêu trừ.
Dùng Bảo kiếm để Hoằng dương chánh giáo độ CÀN KHÔN bằng “QUANG MINH”.  


]



5. The Vajra Hand and Eye

The Sutra says: “For subduing all heavenly demons and spirits, use the Vajra Hand.”


The Mantra: Je ji la e syi two ye.

The True Words: Nan. Ni bi ni bi. Ni ba ye. Mwo he shr li ye. Sa wa he.



The verse:


Held up high, the Dharma-thunder frightens the dull and the dark.
Beaten, beaten, the Dharma-drum shakes the blind and deaf.
Casting  shade everywhere, the Dharma-cloud benefits all things.
Showering everywhere, the Dharma-rain gives moisture to all beings.


Bạt-Chiết-La Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Năm

Giả Kiết Ra A Tất Đà Dạ [68]
Án-- nể bệ nể bệ, nể bà dã, ma ha thất rị duệ, tát-phạ hạ.


Bản Hán-văn thiếu 2 chữ “nể bệ”.


Kinh nói rằng: “Nếu muốn hàng phục tất cả thiên-ma và thần, nên cầu nơi Tay cầm cây

                      Bạt-Chiết-La.”



Thần-chú rằng: Giả Kiết Ra A Tất Đà Dạ [68]

Chơn-ngôn rằng:  Án-- nể bệ nể bệ, nể bà dã, ma ha thất rị duệ, tát-phạ hạ.


Kệ tụng:



Pháp lôi cao kình cảnh ngoan minh
Pháp cổ phủ xao chấn quý lung
Pháp vân phổ âm lợi vạn vật
Pháp vũ biến sái nhuận quần sinh.


[

Pháp Bạt Chiết La như Sấm Sét thức tỉnh người ngu tối
Pháp Bạt Chiết La như Đánh Trống làm chấn động kẽ điếc mù
Pháp Bạt Chiết La như Mây Che trở cho vạn vật được mát mẽ
Pháp Bạt Chiết La như Mưa rưới nước Cam Lồ mang lại sự sống cho quần sanh.


]

Bạt-Chiết-La là âm tiếng Phạndịch là Kim-cang-xử, đây cũng là một loại chày Kim-cang.


 

6. The Vajra Pestle Hand and Eye


The Sutra says: “ For conquering all hateful enemies, use the Vajra Pestle Hand.”


The Mantra: Swo la swo la.

The True Words: Nan. Wa dz la jr ning. Bwo la ni bwo dwo ye. Sa wa he.



The verse:


It conquers hateful demons, frightens spirits and ghosts.
With the universe auspicious, only proper energies remain.
It protects the Dharma and guards the Teaching and its merit everywhere pervades.
With the  Sangha united in harmony, the Field of the Way will flourish.



Kim-Cang-Xử Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Sáu

Ta Ra Ta Ra [43]
Án-- phạ nhựt-ra chỉ-nảnh, bát-ra nể bát đa dã, tát-phạ hạ.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn hàng phục tất cả oán tặc, nên cầu nơi Tay cầm Chày
                      Kim-Cang.”


Thần-chú rằng: Ta Ra Ta Ra [43]

Chơn-ngôn rằng: Án-- phạ nhựt-ra chỉ-nảnh, bát-ra nể bát đa dã, tát-phạ hạ.


Kệ tụng:

Hàng phục oán ma kinh quỉ thần
Vũ trụ cát tường chánh khí tồn
Hộ pháp vệ giáo công huân phổ
Tăng già hợp hòa đạo dịch hưng.

[
Hàng phục Oán ma, kinh sợ các qủi thần.
Chánh pháp còn trụ ở thế gian, thì Vũ-trụ sẽ không bị hủy diệt.
Bảo hộ chánh Pháp, thì công đức không cùng tận.
Tăng gìa hòa hiệp, thì đạo trường sẽ phát triển mạnh mẽ.

]


7. The Bestowing Fearlessness Hand and Eye
           

The Sutra says: “ For all situations where there is fear and unrest, use the Bestowing

                         Fearlessness Hand.”



The Mantra: Nwo la jin chr pan chye la ye

The True Words: Nan. Wa dz la nang ye. Hung pan ja.



The verse:


The rare Dharma Jewel does away with heavenly demons.
Karmic obstacles melt away, so that one is destined for Bodhi.
The myriad illnesses return to Spring, and one’s blessings and lifespan increase.
The hand bestowing fearlessness, saves the lost multitudes.





      Thí Vô Úy Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Bảy


Na Ra Cẩn Trì Bàn Đà Ra Dạ [72]
Án-- phạ nhựt-ra nẳng dã, hồng phấn tra.


Bản Hán-văn thiếu chữ “phạ”.



Kinh nói rằng:” Nếu muốn trừ TÁNH ở tất cả chỗ sợ hãi không yên, nên cầu nơi
                      Tay Thí-Vô-Úy.”


Thần-chú rằng: Na Ra Cẩn Trì Bàn Đà Ra Dạ [72]
Chơn-ngôn rằng: Án-- phạ nhựt-ra nẳng dã, hồng phấn tra.



Kệ tụng:

Thu tận thiên ma pháp bảo kỳ
Nghiệp chướng tiêu trừ thú Bồ đề
Vạn bệnh hồi xuân tăng phước  thọ
Thí vô úy thủ độ quần mê.


[

Thật kỳ lạ Pháp bảo diệu kỳ, thiên ma “ Y LỆNH” không dám lại gần.
Ai trì “ TAY THÍ-VÔ-ÚY” thì nghiệp chứng tiêu trừ, Bồ-đề Tâm kiên cố.
Vạn-bệnh được lành, Phước-Thọ tăng trưởng.
Tay-mắt Vô-úy-thí, cứu độ chúng sanh không còn “TÁNH” sợ hãi bất an.

]


8. The Sun Essence Mani Hand and Eye



The Sutra says: “For darkness and lack of light in the eyes, use the Sun Essence Mani

                        Hand.”




The Mantra: Shr fwo la ye.

The True Words: Nan. Du bi. Jya ye du bi.
                           Bwo la wa li ning. Sa wa he.



The verse:


The mind-ground’s brilliant light illuminates the world.
The six roots purified, work in mysterious interchange.
When stupidity is reversed, true wisdom is attained.
The darkness transforms into a blazing flame.




Nhật-Tinh-Ma-Ni Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Tám


Thất Phật Ra Da [32]
Án-- độ tỉ, ca giả độ tỉ, bát ra phạ rị nảnh, tát-phạ hạ.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn trị bịnh mắt mờ không thấy ánh sáng, nên cầu nơi Tay cầm

                      châu Nhựt-Tinh-Ma-Ni.”



Thần-chú rằng: Thất Phật Ra Da [32]

Chơn-ngôn rằng: Án-- độ tỉ, ca giả độ tỉ, bát ra phạ rị nảnh, tát-phạ hạ.



Kệ tụng:


Tâm địa quang minh chiếu thế gian
Lục căn thanh tịnh hỗ dụng huyền
Ngu si chuyển thành chân trí huệ

Hắc ám biến tác cự hỏa diệm.

[

Tâm địa bất động, thì phát ra quang minh chiếu soi tới các nơi ẩn sâu tối tâm nhất.
Sáu-căn thanh tịnh, thì làm việc thay nhau mà trí thế gian không thể hiểu được.
Một niệm vô-minh không sanh, thì trí huệ chơn tâm hiện tiền.
Một ngọn lửa ĐẠI VIÊN CẢNH TRÍ”, thì “3 A TĂNG KỲ KHIẾP” không còn tối đen âm u.

]



9. The Moon Essence Mani Hand and Eye


The Sutra says: “For sicknesses involving heat and poison, where one seeks coolness,
                         use the Moon Essence Mani Hand.”


The Mantra: Du lu du lu.

The True Words: Nan. Su syi di jya li. Sa wa he.


The verse:


Afflicting one with fewer poisons, they harass one every day.
To be confined to bed is even more tragic.
The Moon Essence Mani Jewel’s refreshing medicine.
Averts disaster, lengthens life, and benefits women and men.




Nguyệt-Tinh Ma-Ni Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Chín


Độ Lô Độ Lô [28]
Án-- tô tất địa yết rị, tát-phạ hạ.


Kinh nói rằng: “Nếu bị bịnh nhiệt độc, muốn được mát mẻ hết bịnh, nên cầu nơi Tay
                       cầm châu Nguyệt-Tinh Ma-Ni.”


Thần-chú rằng: Độ Lô Độ Lô [28]

Chơn-ngôn rằng: Án-- tô tất địa yết-rị, tát-phạ hạ.


Kệ tụng:

Nhiệt độc vi hoạn nhật tương tiễn
Triền miên sàng đệ bội thương thảm
Nguyệt tinh ma ni thanh lương tán
Tiêu tai diên thọ lợi kiền khôn.


[

Một ít chất độc cũng quấy rối, làm khổ một người mỗi ngày.
Bệnh nằm trên giường còn bi thảm hơn là bị giam cầm.
Nguyệt-tinh Ma-ni Thủ Nhãn là “THUẦN-DƯỢC” trị được bịnh nóng nải, buồn rầu.
Làm cho chúng sanh trong Trời-đất, được Tiêu tai họa, thêm tuổi thọ.


]

Ma-ni là tiếng phạn, dịch là châu-bảo, ly-cấu, như-ý. Vì rất qúy nên gọi là châu-bảo; vì trong suốt sáng rỡ nên gọi là ly-cấu, vì tùy sở cầu đều biến hiện nên gọi là như-ý.


 
10. The Jeweled Bow Hand and Eye

The Sutra says: “For promotions in official positions, use the Jeweled Bow Hand.”



The Mantra: Fa sha fa shen.

The True Words: Nan. E dzwo wei. Li. Sa wa he.



The verse:


The brave  and heroic general meets no opposition.
In his hand the Jeweled Bow shoots the crafty villains.
He returns triumphant amidst load song; the promotions in office are many.
With benefit to his office increased, happiness abounds.





Bảo-Cung Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Mười


Phạt Sa Phạt Sâm [39]
Án-- a tả vĩ, lệ, tát-phạ hạ.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn được làm quan, lên chức, nên cầu nơi Tay cầm Cung-Báu.”



Thần-chú rằng: Phạt Sa Phạt Sâm[39]

Chơn-ngôn rằng: Án-- a tả vĩ, lệ, tát-phạ hạ.


Kệ tụng:

Tướng quân anh dũng mạnh vô địch
Bảo cung tại thủ xạ gian di
Khải toàn cao xướng vinh quan bổng

Ích chức gia thăng lạc hữu dư.


[

Tướng quân vô địch, trăm trận trăm thắng, không có đối thủ.
Tay cầm Bảo-cung bắn những kẻ gian ác hại người, hại vật.
Ca khúc chiến thắng trở về rồi được làm quan, lên chức bổng lộc rất nhiều.
Chức vị được gia tăng, thì có khả năng mang lại thái bình hạnh phúc cho tổ quốc.


]


 
11. The Jeweled arrow Hand and Eye



The Sutra says: “For quickly meeting up with good friends, use the Jeweled arrow         

                        Hand.”


The Mantra: Bwo ye mwo now.

The True Words: Nan. Jye mwo la. Sa wa he.



The verse:


He loosed his arrow at the mighty foes; a chill fell upon their boldness.
The enemy subdued, victory was certain.
General Jen Kuei thus levelled the Koreans.
With voices high in songs of triumph, their joy unites the realm.




Bảo-Tiễn Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Mười Một


Ba Dạ Ma Na [51]
Án-- ca mạ lã, tát-phạ hạ.


Kinh nói rằng: “Nếu muốn được mau gặp các bạn lành, nên cầu nơi Tay cầm Tên-Báu.”



Thần-chú rằng: Ba Dạ Ma Na [51]
Chơn-ngôn rằng: Án-- ca mạ lã, tát-phạ hạ.


Kệ tụng:


Tiễn xạ cường địch đảm lạc hàn
Khắc thù chí thắng thao tả khoán
Nhân Quý tướng quân bình liễu loạn
Khải ca cao xướng lạc quần thiên.


[

Bảo-tiễn “THẦN LỰC KHÓ SUY LƯỜNG”, cường địch khiếp sợ lạnh rung người.
Vì khiếp sợ mà qui hàng, nên “KHÔNG CẦN SÁT SANH”, cũng dành được chiến công.
Tướng Quân Nhân Qúy có tài thiện xạ, nên có công dẹp tan được giặc phản loạn.
Đất nước an bình, họ vui mừng ca hát reo hò, như là “ĐẠI HỘI ÂM NHẠC” ở trênTrời.


]


12. The Willow Branch Hand and Eye



The Sutra says: “For various illnesses of the body, use the Willow Branch Hand.”



The Mantra: Mu di li.

The True Words: Nan. Su syi di. Jya li wa li. Dwo nan dwo.
                           Mu dwo yi. Wa dz la. Wa dz la.
                           Pan two. He nang he nang. Hung pan ja.



The verse:


The Willow Branch Hand and Eye ripens all the seeds.
The sick and suffering, fever-stricken, then find relief.
The withered branch encounters spring: chance to thrive renewed.
Mortal and yet undying: glorious eternal life.





Dương-Chi Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Mười Hai


Mục Ðế Lệ [35]

Án-- Tô tất địa, ca rị phạ rị, đa nẩm đa,
                              mục đa duệ, phạ nhựt ra, phạ nhựt ra bạn đà,
        hạ nẳng hạ nẳng, hồng phấn tra.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn trị các thứ bịnh trên thân, nên cầu nơi Tay cầm cành
                      Dương-Liễu.”


Thần-chú rằng: Mục Ðế Lệ [35]

Chơn-ngôn rằng: Án-- Tô tất địa, ca rị phạ rị, đa nẩm đa,
                                    mục đa duệ, phạ nhựt ra, phạ nhựt ra bạn đà,
                                    hạ nẳng hạ nẳng, hồng phấn tra.


Kệ tụng:

Dương chi thủ nhãn độ quần manh
Phiền nhiệt bệnh khổ đắc thanh lương
Khô mộc phùng xuân trọng mậu thịnh
Tử nhi bất vong thọ vĩnh xương.

[

Tay cầm cành dương liễu rưới nước cam-lồ làm cho các hạt giống nảy mần lên cây.
Người bệnh khổ vì sốt nặng cũng được mát mẽ.
Như cây khô héo gặp mùa xuân có cơ hội sống lại.
Chết mà không mất, thọ mạng được dài lâu.


]


13. The White Whisk Hand and Eye



The Sutra says: “For getting rid of evil obstacles and difficulties, use the White Whisk
                          Hand.”



The Mantra: Mwo mwo.

The True Words: Nan. Bwo now mi ning. Pe ye wa di
                           Mwo he ye re. Ye mwo he ning. Sa wa he. 



The verse:


With karma of past killing heavy as a mountain,
You wish to practice the Sagely Way, but obstacles are unbounded.
How fortunate to have the Great compassion White Whisk Hand.
Again sweep lightly, and again so that piled-up hardships vanish.




Bạch-Phất Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Mười Ba


Mạ Mạ [34]
Án-- bát na di nảnh, bà nga phạ đế,
                               mô hạ dã nhá, nga mô hạ nảnh, tát-phạ hạ.

Kinh nói rằng: “Nếu muốn trừ những chướng nạn ác bên thân, nên cầu nơi Tay cầm cây        
                      Phất-Trần.”         
                     

Thần-chú rằng: Mạ Mạ [34]
Chơn-ngôn rằng: Án-- bát na di nảnh, bà nga phạ đế, mô hạ dã nhá,
                                 nga mô hạ nảnh, tát-phạ hạ.


Kệ tụng:

Túc thế sát nghiệp trọng như sơn
Dục tu thánh đạo chướng vô biên
Hạnh hữu đại bi bạch phất thủ
Khinh tảo số số chúng nan quyên


[

Từ vô-luợng kiếp đến nay, Ta đã tạo “nghiệp-sát”, nên tội trọng nặng như núi,
Nay muốn tu “thánh đạo”, lại bị vô-biên nghiệp-chướng ngăn cản, rất khó tu hành.
Lành thay!!!  Gặp được “Cây Phất-Trần” đại từ đại bi của Bồ-tát Quán-Thế-Âm,
Quét sạch nghiệp chướng khó trừ trong vô số kiếp trước của Ta đã tạo.


]



14. The Hu Bottle Hand and Eye.


The Sutra says: “For wholesome and harmonious retinues, use the Hu Bottle Hand.”



The Mantra: Now la jin chr.


The True Words: Nan. Jye li san man yan. Sa wa he.



The verse:


Sweet dew from the Precious Jug nourishes living things.
As dried up wood is touched by spring, it buds again and again.
Elixir for a myriad ills, its great function is revealed.
Infinite living transformations of incomparable wonder.




Hồ-Bình Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Mười Bốn

Na Ra Cẩn Trì [49]
Án-- yết lệ, thảm mãn diệm, tát-phạ hạ.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn tất cả người trong quyến-thuộc được hòa thuận nhau, nên   
                      cầu  nơi Tay cầm cái Hồ-Bình.”



Thần-chú rằng: Na Ra Cẩn Trì [49]


Chân-ngôn rằng: Án-- yết lệ, thảm mãn diệm, tát-phạ hạ.



Kệ tụng:

Hồ-bình cam lộ nhuận quần manh
Cô mộc phùng xuân mậu hựu xương
Vạn bệnh kham trừ hiển đại dụng
Sinh sinh hóa hóa diệu vô phương.

[

Nước Cam-lộ trong Hồ-bình làm cho hữu-tình và vô-tình đều đồng viên Chủng trí
Như cây khô là “VÔ-TÌNH” mà gặp mùa Xuân, còn đâm chồi lên cây tươi tốt
Thật là “Linh-Dược” có thể trừ được vạn bệnh cho chúng-sanh “HỮU” tình và “VÔ” tình
Làm cho sự sống thay đổi sinh sinh hóa hóa kỳ diệu không thể đo lường được.


]


 
     15. The Shield Hand and Eye     
   

The Sutra says: “For warding off tigers, wolves, and wildcats, and all evil beasts, use  

                         the Shield Hand.”



The Mantra: Fa she ye di.

The True Words: Nan. Yau ge shan nang nwo ye jan nai.
                                    La da o be li ye. Ba she ba she. Sa wa he.



The verse:


Wolves, tigers, and wildcats are savage and cruel.
Lions and bears are even fiercer yet.
When the shield is held up high, all of them take flight;
And though walking a dangerous road, one remains at ease.




Bàng-Bài Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Mười Lăm


Phạt Xà Da Ðế [28]

Án-- dược các sam nẳng, na dã chiến nại-ra,
               đạt nậu bá rị-dã, bạt xá bạt xá, tát-phạ hạ.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn xua đuổi loài hổ báo, sài lang và tất cả ác thú, nên cầu nơi
                      Tay cầm cái Bàng-Bài.”


Thần-chú rằng: Phạt Xà Da Ðế [28]
Chơn-ngôn rằng: Án-- dược các sam nẵng, na dã chiến nại-ra,
                                   đạt nậu bá rị-dã, bạt xá bạt xá, tát-phạ hạ.



Kệ tụng:

Sài lang hổ báo mạnh hựu hung
Sư tử hùng bi cánh tranh nanh
Bàng bài cao cử giai hồi tỵ
Tuy phùng hiểm lộ diệc khang bình.


[

Hổ, Sói và Beo mạnh lại còn hung ác.
Sư-tử, Gấu và “BI” thậm chí còn dữ tợn hơn.
Khi Bàng-bài giơ lên cao, thì chúng lẩn tránh xa, mất cả oai phong thường ngày.
Cho nên, dù “Ta” đi trên con đường hiểm nạn, vẫn cảm thấy bình an vô-sự.


]



Con “BI” to hơn con gấu, lông vàng phớt, cổ dài, chân cao, đứng thẳng được như người.


16. The Ax Hand and Eye



The Sutra says: “For avoiding difficulties with the law at all times and in all places, use

                        the Ax Hand.”


The Mantra: Syi lu seng e mu chywe ye.

The True Words: Nan. Wei la ye. Wei la ye. Sa wa he.



The verse :


Tortured  for a confession, even ghosts and spirits cry.
Taken prisoner and put in jail, one’s innocence is hard to assert.
If one wishes to be free from the pain of incarceration,
One should cultivate the Ax Hand, and so remain at peace.






Phủ-Việt Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Mười Sáu

Tất Ra Tăng A Mục Khê Da [64]
Án-- vị ra dã, vị ra dã, tát-phạ hạ.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn trong tất cả thời, tất cả chỗ, lìa nạn quan quân vời bắt, nên
                      cầu nơi Tay cầm cây Phủ-Việt.”


Thần-chú rằng: Tất Ra Tăng A Mục Khê Da [64]

Chơn-ngôn rằng: Án-- vị ra dã, vị ra dã, tát-phạ hạ.



Kệ tụng:


Nghiêm hình bức cung khấp quỉ thần
Hàm oan linh ngữ lý nan thân
Nhược dục thoát ly luy tiết khổ
Thả tu phủ việt thủ an thân

[

Bị tra tấn làm cho nhận tội, cho đến Qủy Thần cũng kinh sợ than khóc.
Một Người bị gian trong tù, dù vô tội cũng rất khó minh oan.
Nếu muốn thoát khỏi cảnh khổ đau “TÙ NGỤC” oan ức,
Thì nên tu Tay-mắt cầm Cây Phủ-Việt, sẽ được an thân ra khỏi “NHÀ TÙ”.


]


 
17. The Jade Ring Hand and Eye


The Sutra says: “For male and female servants, use the Jade Ring hand.”


The Mantra: Hu lu hu lo mwo la.

The True Words: Nan. Bwo nwo syin wei la ye. Sa wa he.


The verse:


Startle heaven, shake the earth, employ the ghosts and spirits.
Call the wind, command the rain, as if in joyful play.
Men are reverent, women respectful, as they all make obeisance.
With guest and host in harmony, the Way will flourish greatly.




Ngọc-Hoàn Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Mười Bảy


Hô Lô Hô Lô Ma Ra [41]
Án-- bát na hàm vị ra dã, tát-phạ hạ.


Kinh nói rằng: “Nếu muốn có tôi trai tớ gái để sai khiến, nên cầu nơi Tay cầm chiếc

                       Vòng-Ngọc.”


Thần-chú rằng: Hô Lô Hô Lô Ma Ra [41]


Chơn-ngôn rằng: Án-- bát na hàm vị ra dã, tát-phạ hạ.


Kệ tụng:


Kinh thiên động địa dịch quỉ thần
Hô phong hoán vũ đàm tiếu trung
Nam cung nữ kính đồng lễ bái
Tân chủ hòa hợp đạo đại hưng.


[

Trời đất rung động sáu cách, làm kinh sợ Qủy thần, nên họ y theo lịnh mà làm.
Gọi gió, kêu mưa, như là chuyện vui đùa.
Nam Nữ cung kính, đồng lễ bái.
Tứ chúng hòa hợp, thì Phật-pháp được phát triển mạnh mẽ.


]



18. The White Lotus Hand and Eye


The Sutra says: “For all kinds of merit and virtue, use the White Lotus Hand.”


The Mantra: Jye meng.

The True Words: Nan. Wa dz la. Wei la ye. Sa wa he.



The verse:

With the white-hued white light of the White Lotus,
One’s good merit and excellent virtue are boundlessly great.
If one diligently cultivates and practices this Hand and Eye,
How can one worry about not arriving at the home of the Dharma King?





Bạch-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Mười Tám

Kiết Mông [27]
Án-- phạ nhựt-ra, vị ra dã, tát-phạ hạ.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn được các thứ công đức, nên cầu nơi Tay cầm
                      Hoa-Sen-Trắng.”


Thần-chú rằng: Kiết Mông [27]

Chơn-ngôn rằng: Án-- phạ nhựt-ra, vị ra dã, tát-phạ hạ.


Kệ tụng:


Bạch sắc bạch quang bạch liên hoa
Thiện công mỹ đức đại vô nhai
Ư thử thủ nhãn cần tu tập
Hà sầu bất chí pháp vương gia.


[

Hoa sen trắng thì phóng ánh hào quang màu trắng,
Khi chạm đến “Thân-tâm”, thì Công-đức tăng trưởng, không cùng cũng không tận.
Nếu một người siêng năng “TRÌ” thủ nhãn nầy,
Thì còn lo gì không đến được nhà của đấng Pháp Vương?


]


19. The Blue Lotus Hand and Eye


The Sutra says: ”For rebirth in the pure lands of the ten directions, use the

                        Blue Lotus Hand.”


The Mantra: Li two yun.

The True Words: Nan. Jr li jr li. Wa dz la.
                           Bu la pan two. Hung pan ja.


The verse:


Mindful of the Buddha, the Dharma, and the holy Sangha,
One may ascend to the jeweled lotuses in the pure lands of the ten directions.
When the flower blooms, the Buddha appears, perfecting the fruit of enlightenment,
Coming and going freely in the space of an instant.




Thanh-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Mười Chín


Rị Ðà Dựng [26]

Án-- chỉ rị chỉ rị, phạ nhựt-ra,
                bộ ra bạn đà, hồng phấn tra.




Kinh nói rằng: “Nếu muốn được sanh về mười phương tịnh-độ, nên cầu nơi Tay cầm  

                        Hoa-Sen-Xanh.”


Thần-chú rằng: Rị Ðà Dựng [26]

Chơn-ngôn rằng: Án-- chỉ rị chỉ rị, phạ nhựt-ra, bộ ra bạn đà, hồng phấn tra.


Kệ tụng:


Niệm Phật niệm pháp niệm thánh tăng
Thập phương tịnh độ bảo liên đăng
Hoa khai Phật hiện viên giác quả
Nhậm vận lai vãng sát na trung.


[

Niệm Phật, Niệm Pháp, Niệm thánh Tăng.
Mười  phương tịnh độ được vãng sanh.
Hoa khai thấy Phật chứng “VÔ-SANH”.
“TỰ-TẠI” QUA LẠI MƯỜI PHƯƠNG TỊNH ĐỘ TRONG KHOẢNG MỘT SÁT-NA.


]


20. The Jeweled Mirror  Hand and Eye


The Sutra says: “For great wisdom, use the Jeweled  Mirror Hand.”


The Mantra: Shr nwo shr nwo

The True Words: Nan. Wei sa pu la. Nwo la ge cha.
                                    Wa dz la. Man cha la. Hung pan ja.


The verse:


The great perfect mirror-wisdom plumbs the Dharma-source;
Revealing within it strange creatures, and snaring uncanny immortals.
Within King Yama’s mirror evil karma is revealed.
A Dharma jewel, the Mirror Hand, perfect the wisdom of all modes.




Bảo-Kính Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Hai Mươi

Thất Na Thất Na [37]

Án-- vỉ tát phổ ra, na ra các xoa,
                              phạ nhựt-ra, mạn trà lả, hồng phấn tra.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn được trí huệ lớn, nên cầu nơi Tay cầm cái Kính-Báu.”



Thần-chú rằng: Thất Na Thất Na [37]


Chơn-ngôn rằng: Án-- vĩ tát phổ ra, na ra các xoa,
                                   phạ nhựt-ra, mạn trà lả, hồng phấn tra.



Kệ tụng:

Đại viên kính trí cùng pháp nguyên
Chiếu yêu kính lý tróc quái tiên
Diêm vương kính trung ác nghiệp hiện
Pháp bảo kính thủ chủng trí viên

[

Đại viên cảnh trí thông suốt cùng tận cội nguồn của tất cả Pháp.
Trong “KÍNH CHIẾU YÊU”, Yêu-quái hiện nguyên hình, tùy ý ta bắt giữ hoặc tha đi.
Như KÍNH của DIÊM VƯƠNG, ác nghiệp trong một đời đều hiện, không chối cải được.
Tu Bảo Kính Thủ Nhãn Ấn Pháp, thì thành tựu “NHẤT THIẾT CHỦNG TRÍ.

]
 

21. The Purple Lotus Hand and Eye

  

The Sutra says: “For meeting the Buddhas of the ten directions, use the Purple Lotus

                        Hand.”


The Mantra: Fwo la she ye

The True Words: Nan. Sa la sa la. Wa dz la jya la. Hung pan ja.



The verse:


With the miraculous, inconceivable Purple Lotus Flower,
We attain Bodhi quickly, the Dharma of liberation.
We meet the Buddhas of the ten directions,
And never again descend into the homes of the six paths.




(ca )  ra

( Không hiểu tại sao trong bản dịch của HT. THÍCH THIỀN-TÂM,
không có 2 chữ “CA RA”? )




Tử-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Hai Mươi Mốt

Phật Ra Xá Da [40]
Án-- tát ra tát ra, phạ nhựt-ra ca ra, hồng phấn tra.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn được diện kiến 10 phương tất cả chư Phật, nên cầu nơi Tay

                      cầm Hoa-Sen-Tím.”



Thần-chú rằng: Phật Ra Xá Da [40]

Chơn-ngôn rằng: Án-- tát ra tát ra, phạ nhựt-ra ca ra, hồng phấn tra.


Kệ tụng:

Vi diệu nan tư tử liên hoa
Bồ đề tốc chứng giải thoát pháp
Diện kiến thập phương Phật-đà-da
Tùng kim bất lạc lục đạo gia.


[

Tử Liên Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp, vi diệu không thể “NGHĨ BÀN” mà hiểu được,
Được Pháp Giải-thoát nầy, thì mau chứng qủa Bồ-đề của chư PHẬT.
Gặp được chư Phật ở 10 phương Tịnh-độ,
Thì “TỰ-TẠI” vào Lục-đạo, cứu độ tất cả Chúng-sanh “MÀ KHÔNG BỊ THỐI CHUYỂN.”


]


22. The Jewel-chest Hand and Eye


The Sutra says: “For uncovering hidden treasures in the earth, use the Jewel-chest
                        Hand.”


                     


The Mantra: Syi two yu yi. Shr pan la ye.

The True Words: Nan. Wa dz la. Bwo she jye li.
                         Jye nang syin. La hung.



The verse:


The heavens are wonderfully adorned with myriad gems.
In the earth hidden treasure transforms the foolish people;
Rare jewels glow in the dragon palace underneath the sea.
The Jewel-chest Hand radiates brilliant light.




Bảo-Khiếp Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Hai Mươi Hai

Tất Đà Dủ Nghệ [57]
Thất Bàn Ra Dạ [58]

Án-- phạ nhựt-ra, bá thiết ca rị,
  yết nẳng hàm, ra hồng.


Kinh nói rằng: “Nếu muốn lấy được kho báu ẩn trong lòng đất, nên cầu nơi Tay cầm cái

                      Bảo-Kiếp.”


Thần-chú rằng: Tất Ðà Dủ Nghệ [57]
                        Thất Bàn Ra Dạ [58]

Chơn-ngôn rằng: Án-- phạ nhựt-ra, bá thiết ca rị,
                                   yết nẳng hàm, ra hồng.


Kệ tụng:


Thiên thượng chúng bảo diệu nghiêm trang
Địa trung phục tạng hóa ngu manh
Hải lý long cung kỳ trân hiện
Bảo khiếp thủ nhãn phóng hào quang.


[

Trên các cõi Trời dùng vô-lượng diệu bảo để trang nghiêm cảnh giới,
Trong “Tâm-Địa” đầy đủ GIỚI, ĐỊNH, HUỆ và THẦN THÔNG để chuyển hóa quần mê.
Trong Long-cung ở dưới biển xuất hiện Kỳ-trân, thì có thánh nhân ra đời,
Cũng như Bảo khiếp Thủ Nhãn Ấn Pháp phóng hào quang, thì có người đắc đạo.

]


 
23. The Five-colored Cloud Hand and Eye



The Sutra says: “For the Way of the immortals, use the Five-colored Cloud Hand and

                        Eye.”



The Mantra: Mwo syi mwo syi.

The True Words: Nan. Wa dz la. Jye li la ja syin ja.


The verse:

For the Tao (Way) one seeks immortality and long life,
For a lifespan as long as the heavens last, neither more nor less.
Just as you wish, auspiciously, penetrations and changes abound,
With a lucky cloud of Five-colors underneath your feet.




    Ngũ-Sắc-Vân Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Hai Mươi Ba

Ma Hê Ma Hê [26]
Án-- phạ nhựt-ra, ca rị ra tra hàm tra.




Kinh nói rằng: “Nếu muốn được đạo tiên, nên cầu nơi Tay cầm hóa hiện
                      Mây-Ngũ-Sắc.”



Thần-chú rằng: Ma Hê Ma Hê [26]


Chơn-ngôn rằng: Án-- phạ nhựt-ra, ca rị ra tra hàm tra.


Kệ tụng:


Vị đạo cầu tiên nguyện trường sinh
Thọ dữ thiên tề bất giảm tăng
Toại tâm như ý thông biến hóa
Ngũ sắc tường vân túc hạ đăng.


[

“ĐẠO TIÊN”, cầu trường sanh thì có, cầu “BẤT TỬ” thì không,
Tưởng rằng Thọ-mạng sánh bằng “TRỜI ĐẤT”, không tăng không giảm.
Dù có thần thông biến hóa toại tâm như ý, nhưng vẫn còn ở trong “TAM GIỚI” mà thôi.
Khi Trì NGŨ SẮC VÂN THỦ NHÃN, thì bỏ được ngã chấp, RA KHỎI TAM GIỚI.


]


 
24. The Kundi Hand and Eye

  

The Sutra says: “For birth in the Brahma heavens, use the Kundi Hand.”


The Mantra: Two la two la

The True Words: Nan. Wa dz la. Shr chywe lu. Ja syin ja.



The verse:


Those in the great Brahma heaven, pure and undefiled,
Experience wondrous bliss--their blessed reward is full.
Just maintain this Kundi Hand,
And you’ll be born there with a lifespan as long as that of a mountain.


( Không hiu ti sao trong bn dch ca HT. THÍCH THIN-TÂM, có thêm 1 ch RA,
Pht t tm thi b ra, ch đi các bc THIN TRI THC nói rõ nguyên do s thêm vào)


   ra (la)

Án-- phạ nhựt-ra, thế khê ra, rô tra hàm tra.






Quân-Trì Thủ Nhãn Ấn Pháp
 Thứ Hai mươi Bốn

    Đà Ra Đà Ra [30]
  Án-- phạ nhựt-ra, thế khê rô, tra hàm tra.


Kinh nói rằng: “Nếu muốn sanh lên cõi Phạm-Thiên, nên cầu nơi Tay cầm bình
                      Quân-Trì.”


Thần-chú rằng: Đà Ra Đà Ra [30]

Chơn-ngôn rằng: Án-- phạ nhựt-ra, thế khê rô, tra hàm tra.



Kệ tụng:


Thanh tịnh vô nhiễm Đại Phạm Thiên
Thọ thắng diệu lạc phúc báo toàn
Đản năng trì thử quân trì thủ
Thân thân sinh bỉ thọ như sơn.

[

Cõi Trời SẮC GIỚI Đại Phạm Thiên, thanh tịnh vô nhiễm ly THAM dục.
Phước báo thù thắng diệu vô cùng, như còn khổ nạn vì HỎA TAI.
Nếu thường tu niệm QUÂN TRÌ THỦ.
Đời đời kiếp kiếp được trường thọ, không bị nạn khổ vì HỎA TAI.

]


25. The Red Lotus Hand and Eye

The Sutra says: “For rebirth in all heavenly palaces, use the Red Lotus Hand.”

The Mantra: Bwo two mwo jye syi two ye.
The True words: Nan. Shang jye li. Sa wa he.

The verse:

The joys of the heavens surpass those of humankind.
Between the vow for heavenly birth and its fulfillment lie many difficulties.
But only maintain this Red Lotus Hand,
And you’ll be reborn there in a finger-snap, without waiting around.



Hồng-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Hai Mươi Lăm

Bà Đà Ma Yết Tất Đà Dạ [70]
  Án-- thương yết lệ, tát-phạ hạ.


Kinh nói rằng: “Nếu muốn được sanh lên các cung trời, nên cầu nơi Tay cầm
                       Hoa-Sen-Hồng.”


Thần-chú rằng: Bà Đà Ma Yết Tất Đà Dạ [70]
Chơn-ngôn rằng: Án-- thương yết lệ, tát-phạ hạ.

Kệ tụng:

Chư thiên khoái lạc thắng nhơn gian
Phát nguyện vãng sanh đa trở nan
Đản tự thủ trì hồng liên hoa
Đàn chỉ vãng sanh phi đẳng gián.

[
Khoái lạc Cõi TRỜI hơn nhơn gian,
Muốn được sanh về thật gian nan.
“HỒNG LIÊN HOA THỦ” thường trì niệm,
Khoảng tay co duỗi được sanh về.
]



26. The Jeweled Halberd Hand and Eye

 

The Sutra says: “For warding off invading enemies, use the Jeweled Halberd Hand.”

 

The Mantra: Mwo he fa she ye di.

The True Words: Nan. San mei ye. Jr ning he li.

                                    Hung pan ja.

 

 

The verse:

 

When Jen Kuei stormed Korea; his bravery was matchless.

The rescue from the quicksand revealed his uncommon strength.

After Korea submitted to the Celestial rule,

That country’s rebellious thieves vanished without a trace.



Bảo-Kích Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Hai Mươi Sáu


Ma Ha Phạt Xà Da Đế [29] 

Án-- thẳm muội dã, chỉ nảnh hạ rị,

 hồng phấn tra.


 

 Kinh nói rằng: “Nếu muốn xua đuổi giặc nghịch ở phương khác đến, nên cầu nơi Tay

                       cầm cây Bảo-Kích.”

 

Thần-chú rằng: Ma Ha Phạt Xà Da Đế [29]

Chơn-ngôn rằng: Án-- thẳm muội dã, chỉ nảnh hạ rị,

                                    hồng phấn tra.

 

 

Kệ tụng:

 

Nhân Quý chinh liêu dũng vô địch

Nê hà cứu giá lập công kỳ

Cao ly đầu hàng triều thánh đế

Tha phương nghịch tặc tuyệt tông tích.

 

 

]

 

TIẾT NHÂN QÚY, Dũng Tướng vô địch, viễn chinh tới thành LIÊU NINH,

Không nại nguy hiểm mất mạng, Cứu VUA nên lập được kỳ công.

Thuần phục quân CAO LY, đất nước an bình VUA được tôn xưng là THÁNH ĐẾ,

Bởi vì không còn tông tích của giặc NGOẠI XÂM phương khác nữa.

 

]




27. The Jeweled Conch Hand and Eye

The Sutra says: “For summoning all the gods and good spirits, use the Jeweled  
                        Conch Hand.”


The Mantra: Jyu lu jyu lu.

The True Words: Nan. Shang jye li.
                                    Mwo he san man yan. Sa wa he.


The verse:

When the Dharma-sound reverberates, startling the gods,
Each and every virtuous spirit  will obey the summons.
Within boundaries set in the four directions there are a thousand transformations.
The dragon-kings stand guard in the front and in the rear.


Lời bàn:

Trong thủ nhãn thứ 26, thì HT. THIỀN-TÂM dịch là thẳm , theo PHƯƠNG LIÊN TỊNH XỨ MẬT TỊNH ĐẠO TRÀNG xuất bản năm 2008, nhưng ở thủ nhãn thứ 27 thì HT. lại dịch là thảm. Phật tử không dám sửa lại vì chưa biết rõ nguyên do. 



Bảo Kích Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Hai Mươi Sáu

Ma Ha Phạt Xà Da Đế [29]
Án-- thẳm muội dã, chỉ nảnh hạ rị, hồng phấn tra.





Bảo-Loa Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Hai Mươi Bảy

Cu-Lô Cu-Lô [27]

Án-- thương yết-lệ,
                                            mạ hạ thảm mãn diệm, tát-phạ hạ.

Kinh nói rằng: “Nếu muốn triệu tất cả chư thiên, thiện-thần nên cầu nơi Tay cầm ống                              Loa-Báu.”

        
Thần-chú rằng: Cu-lô Cu-lô [27]

Chơn-ngôn rằng: Án-- thương yết-lệ,
                                   mạ hạ thảm mãn diệm, tát-phạ hạ.


Kệ tụng:

Pháp âm hưởng triệt chấn chư thiên
Nhất thiết thiện thần y triệu lệnh
Tứ phương kết giới thiên biến hóa
Long vương hộ vệ tại hậu tiền.


[
Pháp âm vang động khắp Chư-thiên,
Tất cả Thiện-thần theo lệnh triệu.
Bốn phương Kiết-giới theo TÂM-tưởng,
Vua-Rồng trước sau hộ hành giả.
]


28. The Skull Bone Staff Hand and Eye


The Sutra says : “For summoning all ghosts and spirits, use the Skull Bone Staff
                          Hand.”


The Mantra : Yi syi yi syi
The True Words : Nan. Du nang. Wa dz la he.



The verse :


Bleached bones in the barren waste, before the grave’s been filled:
The practictioner cultivates this dharma by setting up an altar for offerings.
Once accomplished, ghosts and spirits obey  all commands.
With the Skull Bone Staff Hand one must hold to compassion and vows.


]

Trong bản dịch tiếng anh của Tỷ-khưu-ni Heng Yin vào năm 1976 thì THỦ NHÃN thứ 28 là :  all the gods and good spirits: tất cả chư thiên và thiện thần

Còn THỦ NHÃN thứ 27 là: all ghosts and spirits: tất cả quỷ thần

Phật tử tạm thời đổi lại cho hợp với Kệ tụng và Kinh-văn.

]


Có bản tiếng việt  thiếu chữ “Xá” (he).



Độc-Lâu-Trượng Thủ Nhãn Ấn Pháp
    Thứ Hai Mươi Tám

   Y Hê Di Hê [36]
   Án-- độ nẳng, phạ nhựt-ra xá.


Kinh nói rằng: “Nếu muốn sai khiến tất cả quỷ-thần, nên cầu nơi Tay cầm cây
                      Gậy- Đầu-Lâu.”



Thần-chú rằng: Y Hê Di Hê [36]
Chơn-ngôn rằng: Án-- độ nẳng, phạ nhựt-ra .



Kệ tụng:

Bạch cốt hoàn giao thổ vị mai
Hành nhân tu pháp thiết cung đài
Luyện thành quỷ-thần tuân hiệu lệnh
Độc lâu trượng thủ bi nguyện hoài.


]
Xương khô bỏ trên đất lâu đời không ai chôn cất,
Người tu lập một cái bàn thờ cúng dường QỦY THẦN trước TƯỢNG THIÊN NHÃN.
Bảy ngày chí tâm tụng THỦ NHÃN, Qủy thần sẽ hiện thân theo lệnh triệu.
Phát BỒ-ĐỀ-TÂM, tu theo người trì ĐỘC LÂU TRƯỢNG THỦ NHÃN ẤN PHÁP NẦY.
]


29. The Recitation Beads Hand and Eye


The Sutra says: “For causing the ten direction Buddhas to quickly come and confer
                         predictions, use the Recitation Beads Hand.”


The Mantra: Fwo la she li.
         
The True Words: Na mwo la da nang. Da la ye ye.
                           Nan. E now pe di wei re yi.       
                           Syi di syi two li ti. Sa wa he. 



The verse:

When one attends to the here and now, the false return to the true;
The Buddhas of the ten directions personally lend a hand.
Quickly certify to the nine levels of the three divisions
With this wonderful Mahayana dharma of splendid, magical words.



Sổ-Châu Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Hai Mươi Chín

Phật Ra Xá-Lợi [38]

Nẳng mồ-- ra đát-nẳng,
                   đát ra dạ dã. 

                                       Án-- a na bà đế vĩ nhá duệ,
                                                 tất địa tất đà lật thế,
                                                                                      tát-phạ hạ.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn 10 phương chư Phật sớm đến đưa tay tiếp dẫn, nên cầu nơi
                      Tay cầm xâu Chuỗi-Ngọc.”

Thần-chú rằng: Phật Ra Xá-Lợi [38]

Chơn-ngôn rằng: Nẳng mồ-- ra đát-nẳng,
                                              đát ra dạ dã.

                                              Án-- a na bà đế vĩ nhá duệ,
                                                       tất địa tất đà lật thế, tát-phạ hạ.


Kệ tụng:

Niệm tư tại tư vọng quy chơn
Thập phương chư Phật thọ thủ thân
Tốc chứng tam bối phẩm tư địa
Ma ha diệu pháp thắng linh văn.


]
NHỨT-TÂM TRÌ NIỆM THỦ NHÃN, thì vọng niệm không sanh khởi tức là QUY-CHƠN,
Mười phương chư Phật đưa Tay-tiếp-dẫn từ TỊNH ĐỘ NẦY SANG TỊNH ĐỘ KHÁC.
Làm cho “QÚY-VỊ” mau chứng được 9 PHẨM 3 ĐỊA VỊ BẤT THỐI CHUYỂN,
Diệu pháp ĐẠI-THỪA THẬT SỰ LÀ THÙ THẮNG, THẬT SỰ LÀ TỐI LINH.
]


30. The Jeweled Bell Hand and Eye

The Sutra says : “For accomplishing all superior Brahma sounds, use the Jeweled Bell
                         Hand.”


The Mantra: Je la je la.

The True Words: Na mwo bwo nwo syin bwo na ji. Nan.
                           E mi li dan. Yan sheng shr li yi.
                           Shr li nyan li ning. Sa wa he.



The verse:

The Brahma sound is heard loud and clear throughout empty space,
Informing the deaf, skaking the blind, and startling the foolish and dull.
Esoteric and wonderful are the transformations of the Hand of the Jeweled Bell,
For on hearing the sound, one escapes suffering--
                                through the School of Enlightement Flower.


 Bảo-Đạc Thủ Nhãn Ấn Pháp
  Thứ Ba Mươi


Dá Ra Dá Ra [33]

Nẳng mồ-- bát ra hàm bá noa duệ.
                                                    Án-- a mật lật đảm, nghiểm bệ thất rị duệ,
                                                     thất rị chiếm rị nảnh, tát-phạ hạ.


Kinh nói rằng: “Nếu muốn có được tất cả Phạm-âm-thanh tốt nhiệm mầu, nên cầu nơi
                      Tay cầm chiếc Linh-Báu.”

Thần-chú rằng: Dá Ra Dá Ra [33]

Chơn-ngôn rằng: Nẳng mồ-- bát ra hàm bá noa duệ.
                                              Án-- a mật lật đảm, nghiểm bệ thất rị duệ,
                                                       thất rị chiếm rị nảnh, tát-phạ hạ.


Kệ tụng:

Phạm âm liệu lượng biến thái không
Khải lung chấn quý cảnh ngu mông
Huyền diệu biến hóa bảo đạc thủ
Văn thanh ly khổ giác hoa tông.


[

PHẠM-ÂM vang ngân biến khắp cùng tận hư không PHÁP GIỚI,
KHAI THỊ cho người ĐIẾC, kẽ MÙ và thức tỉnh người NGU TỐI.
Bảo-đạc-thủ là PHÁP TĂNG TRƯỞNG THIỆN CĂN thật Huyền-bí, thật Diệu-kỳ,
Nếu có “AI” thấy nghe, thì ly khổ đắc lạc, chứng nhập cảnh giới HOA NGHIÊM TÔNG.

]


31. The Jeweled Seal Hand and Eye

The Sutra says : “For mouth karma which is eloquent, clever and wonderful, use the
                           Jeweled Seal Hand.”


The Mantra : Sa pe sa pe.

The True Words : Nan. Wa dz la. Ning dan re yi. Sa wa he.

The verse :

One’s  mouth is like a flowing river of heroic eloquence,
With phrasings ingenious  and subtle, and sounds clear and resonant.
In the Dharma nature’s mystery principle and specific interfuse;
As the Buddha’s mind seal is transmitted, the myriad good qualities unite.




Bảo-Ấn Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Ba Mươi Mốt

Tát Bà Tát Bà [24]
Án-- phạ-nhựt ra, nảnh đảm nhá duệ, tát-phạ hạ.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn được miệng nói biện luận hay khéo, nên cầu nơi Tay cầm
                      chiếc Ấn-Báu.”


Thần-chú rằng: Tát Bà Tát Bà [24]

Chơn-ngôn rằng: Án-- phạ-nhựt ra, nảnh đảm nhá duệ, tát-phạ hạ.


Kệ tụng:

Khẩu nhược huyền hà biện tài hùng
Ngôn từ khảo diệu âm lượng hồng
Lý sự viên dung pháp tánh áo
Truyền Phật-tâm-ấn vạn thiện đồng.

[

Tài hùng biện như nước SÔNG chảy mãi không ngừng, như “DUY-MA-CẬT” Cư-sĩ.
Diệu-âm vang dội khắp 10 phương, tầm thanh cứu khổ như là QUÁN-THẾ-ÂM” Bồ-tát.
Lý-sự viên dung vô ngại, thì thành tựu được 2 trí: Căn-bổn-trí và Sai-biệt-trí.
PHẬT TRUYỀN 1 ẤN NHẤT THỪA, 84 000 PHÁP QUY VỀ NHẤT TÂM.

]



32. The Chu Shih Iron Hook Hand and Eye


The Sutra says: “For causing the good spirits and dragon kings to constantly surround
                         and guard one, use the Chu Shih Iron Hook Hand.”


The Mantra: Di li ni.

The True Words: Nan. E gu lu. Dwo la jye la. Wei sha yi.
                                    Na mwo sa wa he.



The verse:


The dragon kings named “Quickly Cultivate” and “Hurry Up and Save,”
And the good spirits “Fruit of the Past” and “Dharma Greatness”.
Took refuge with the Triple Jewel and guard the Field of the Way,
Walking, standing, sitting, reclining, they always are at ease.




Cu-Thi-Thiết-Câu Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Ba Mươi Hai


Địa Rị Ni [31]
Án-- a rô rô, đa ra ca ra, vỉ sa duệ.
                                              Nẳng mồ-- tát-phạ hạ.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn được Thiên-thần, Long-vương thường đến ủng hộ, nên cầu
                      nơi Tay cầm Cu-Thi-Thiết-Câu.”



Thần-chú rằng: Địa Rị Ni [31]

Chơn-ngôn rằng: Án-- a rô rô, đa ra ca ra, vỉ sa duệ.
                                   Nẳng mồ-- tát-phạ hạ.


Kệ tụng:

Cấp Tu, Khoái Độ chư long vương
Quả Vãng, Pháp Đại các thiện tường
Quy y tam bảo hộ đạo trường
Hành trụ tọa ngọa vĩnh an khang.


[
Các LONG-VƯƠNG thích tu PHÉP THẦN THÔNG, như lại không giữ GIỚI-LUẬT,
Tuy làm THÂN RỒNG, cũng gieo được THIỆN CĂN về sau, là do tu “PHÁP ĐẠI-THỪA”.
Cũng được Quy Y Tam Bảo, thọ “BỒ-TÁT-GIỚI”, làm những vị BẢO HỘ ĐẠO TRÀNG,
Do SÁM-HỐI TRÌ GIỚI-LUẬT, nên được TỰ-TẠI AN-NHIÊN khi ĐI, ĐỨNG, NẰM, NGỒI.

]



33. The Tin Staff Hand and Eye

The Sutra says: “For covering and protecting all beings with compassion, use the Tin
                         staff Hand.”

The Mantra: Mi di li ye
The True Words: Nan. Nwo li ti. Nwo li ti. Nwo li ja bwo di.
                           Nwo li di nwo ye bwo ning. Hung pan ja.


The verse:

Great compassion and great mercy rescue living beings.
Great joy and great giving benefit all that lives.
Great vows and great kindness are the Bodhisattva Way.
Great courage and great strength bear the Buddha fruit.



Tích-Trượng Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Ba Mươi Ba

Di Đế Rị Dạ [48]
Án-- na lật thế, na lật thế,
                                             na lật tra bát để, na lật đế  na dạ bát nảnh,
                                                                                hồng phấn tra.


Kinh nói rằng: “Nếu vì lòng Từ-bi muốn cho tất cả Chúng-sanh được nh sự che chở
                        giúp đỡ, nên cầu nơi Tay cầm cây Tích-Trượng.”



Thần-chú rằng: Di Đế Rị Dạ [48]

Chơn-ngôn rằng: Án-- na lật thế, na lật thế,
                                   na lật tra bát để, na lật đế  na dạ bát nảnh,
                                   hồng phấn tra.


Kệ tụng:

Đại từ đại bi cứu quần sinh
Đại hỷ đại xả ích hàm manh
Đại nguyện đại nhân bồ tát đạo
Đại hùng đại lực Phật quả thành.

[

Đại-từ Đại-bi CỨU Chúng-sanh,
Đại-hỷ Đại-xả LỢI Hữu-tình.
Đại-nguyện Đại-NHÂN BỒ-TÁT-ĐẠO,
Đại-hùng Đại-lực THÀNH PHẬT QỦA.
]

 
34. The Joined Palms Hand and Eye


The Sutra says: “For causing all living beings to be always respectful and loving towards
                        one another, use the Joined Palms Hand.”


The Mantra: Syi li syi li.

The True Words: Nan. Bwo na man re ling. He li.

(Tripitaka True words : Nan. Wei sa la. Wei sa la. Hung pan ja.)
                                               
                                     


The verse:


Single-mindedly revere the god among the gods.
Living beings thoughts of kindness are true and sincere.
As one plants causes one reaps their fruit--look within yourself.
With reverence coming and going, impartial is the Way.
         

Hiệp-Chưởng Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Ba Mươi Bốn


Tất Rị Tất Rị [44]
Án --bát nạp mạng, nhá lăng hất rị.






Kinh nói rằng: “Nếu muốn cho tất cả chúng sanh thường cung kính yêu mến nhau, nên
                       cầu nơi Tay Hiệp-Chưởng.”


Thần-chú rằng: Tất Rị Tất Rị [44]
Chơn-ngôn rằng: Án-- bát nạp mạng nhá lăng, hất rị.

(Theo trong tạng-bản, lại có chơn-ngôn: Án-- vỉ tát ra, vỉ tát ra, hồng phấn tra.)



Kệ tụng:

Nhất tâm cung kính thiên trung thiên
Chúng sinh ái niệm các chân hư
Chủng nhân kết quả cầu chư kỷ
Lễ thượng vãng lai đạo bất thiên.

[

NHẤT TÂM CUNG KÍNH chư PHẬT THẾ TÔN là đấng THIÊN TRUNG THIÊN.
Chúng-sanh chơn thành LỄ-NIỆM đấng ĐẠI-TỪ TÔN.
Quán NHÂN TỰ-TÁNH, THÀNH CHỦNG TRÍ.
ĐẢNH LỄ “NHƯ LAI”, không từ đâu đến cũng không đi về đâu.

]



35. The Transformation Buddha on the Palm Hand and Eye

                                              

The Sutra says: “For never being apart from the Buddhas throughout all successive
                        lives, use the Transformation Buddha Hand.”



The Mantra: E  la shen         

The True Words: Nan. Jan nwo la. Pe han ja li.
                         Jya li nwo. Chi li nwo. Chi li ni.
                         Hung pan ja.
  


The verse:


In the past one planted the roots of virtue, planting seeds of superior causes,
So that one takes as one’s retinue the Buddhas and Bodhisattvas.
In the sea of the enlightenment, placid and clean, the moon of the heart appears;
In the Wisdom of the Great and perfect mirror, the past and the present are clear.






Chưởng-Thượng Hóa-Phật Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Ba Mươi Lăm


A Ra Sâm [38]

Án-- chiến na ra, ba hàm tra rị,
                                                 ca rị na, chỉ rị na, chỉ rị nỉ, hồng phấn tra.


Kinh nói rằng: “Nếu muốn tùy theo chỗ sanh, thường ở bên Phật, nên cầu nơi Tay hiện
                      Hóa-Phật.”


Thần-chú rằng: A Ra Sâm [38]

Chơn-ngôn rằng: Án-- chiến na ra, ba hàm tra rị,
                                   ca rị na, chỉ rị na, chỉ rị nỉ, hồng phấn tra.

Kệ tụng:

Túc thực đức bản chủng thắng nhân
Chư Phật Bồ tát quyến thuộc thân
Giác hải trừng thanh tâm nguyệt hiện
Đại viên kính trí cổ kim minh.


[

Trong quá khứ đã trồng THIỆN CĂN CÔNG ĐỨC, nhưng chưa  từng gieo chủng nhân thù thắng.

Vì vậy, nên không được làm QUYẾN THUỘC của
 chư Phật và Bồ-Tát.

Trong biển giác ngộ, KHI TÂM THANH TỊNH THÌ xuất hiện MẶT TRĂNG DƯỚI NƯỚC,

                                    dụ cho TÂM PHẬT cùng TÂM BỒ-TÁT HIỆP NHAU, tức là ĐẲNG-GIÁC BỒ TÁT.

Trong  đại viên cảnh trí, TẤT CẢ BA ĐỜI QUÁ KHỨ, HIỆN TẠI và VỊ LAI ĐIỀU HIỆN 
rất rõ ràng,
                                                                                thì thành VÔ-THƯỢNG ĐẠO, tức là DIỆU-GIÁC.

]


36. The Transformation Palace Hand and Eye

The Sutra says: “For always being present in the palaces of the Buddhas throughout all  
                         successive lives and births and never receiving a body born from a   
                         womb, use the Transformation Buddha Hand.”

                             

The Mantra: Fa mwo la.

The True Words: Nan. Wei sa la. Wei sa la. Hung pan ja.



The verse:



In all incarnations, in every life, born in the Dharma King’s house,
Born from a wonderful lotus blossom in a multi-storied palace.
Not undergoing birth from a womb, one’s body is clean and pure,
To believe, understand, practice, and prove to the Way of the Great Budhisattva.





Hóa-Cung-Điện Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Ba Mươi Sáu

Phạt Ma Ra [34]
Án-- vi tát ra, vi tát ra, hồng phấn tra.




Kinh nói rằng: “Nếu muốn đời đời kiếp kiếp thường ở trong cung điện Phật, không thọ
                      sanh ở bào thai, nên cầu nơi Tay hiện Hóa-Cung-Điện.”

Thần-chú rằng: Phạt Ma Ra [34]
Chơn-ngôn rằng: Án-- vi tát ra, vi tát ra, hồng phấn tra.


Kệ tụng:

Thế thế sinh sinh pháp vương gia
Cung điện lâu các diệu liên hoa
Bất thọ thai tạng thân thanh tịnh
Tín giải hành chứng ma ha tát.


[

Đời đời kiếp kiếp, được sanh ra trong nhà của ĐẤNG PHÁP-VƯƠNG.
Hóa sanh từ DIỆU LIÊN HOA trong CUNG ĐIỆN LÂU CÁC.
THÂN TÂM thanh tịnh, không còn thọ thân BÀO THAI nữa.
TÍN, GIẢI, HÀNH, CHỨNG thành Bồ-tát ĐẲNG-GIÁC Ma-ha-tát. 

]


37. The Jeweled Sutra Hand and Eye

The Sutra says: “For much learning and extensive study, use the Jeweled Sutra Hand.”


The Mantra: Syi two ye. Swo pe he.
                    Mwo he syi two ye. Swo pe he.


The True Words: Nan. E he la. Sa la wa ni.
                                    Ni ye two la. Bu ni di. Sa wa he.



The verse:


First place in erudition goes to Ananda;
For broad learning and fine memory, there’s Confucius’ Yen Yuan.
Reading and reciting the Great Vehicle’s profound Prajna,
One’s wisdom flows forth just like a bubbling spring.




Bảo-Kinh Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Ba Mươi Bảy



Tất Đà Dạ. Ta Bà Ha.
                                    Ma Ha Tất Đà Dạ. Ta Bà Ha. [53-56]



Án-- a hạ ra, tát ra phạ ni,
                              nể dã đà ra, bố nể đế, tát-phạ hạ.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn được học rộng nghe nhiều, nên cầu nơi Tay cầm quyển
                      Kinh-báu.”



Thần-chú rằng: Tất Đà Dạ. Ta Bà Ha.
                       Ma Ha Tất Đà Dạ. Ta Bà Ha [53-56]

Chơn-ngôn rằng: Án-- a hạ ra, tát ra phạ ni,
                                    nể dã đà ra, bố nể đế, tát-phạ hạ.


Kệ tụng:

Đa văn đệ nhất thuộc A Nan
Quảng học thiện ký Khổng Nhan Uyên
Độc tụng đại thừa thâm bát nhã
Trí huệ thao thao như dũng tuyền.

[
Đứng đầu ĐA-VĂN học rộng là A-Nan.
Học rộng NHỚ LÂU, có Khổng-Tử và Nhan-Uyên.
Thâm nhập BÁT-NHÃ nhờ đọc tụng KINH ĐẠI-THỪA THỦ LĂNG NGHIÊM,
Cho nên, TRÍ-HUỆ VÔ-NGẠI như dòng suối vọt lên không ngừng.
]



38. The Non-retreating Gold Wheel Hand and Eye


The Sutra says: “For not retreating from the Bodhi heart from this incarnation until
                          one’s incarnation as a Buddha, use the Non-retreating Gold Wheel
                          Hand.”



The Mantra: Pu ti ye.

The True Words: Nan. She nwo mi dzwo. Sa wa he.



The verse:


The wheel of vajra suppresses the deviant and protects the proper;
Li mei and wang liang  all hide themselves away.
The heart of the Bodhi Way becomes irreversible,
From this life until the life in which you become a Buddha.




Bất-Thối Kim-Luân Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Ba Mươi Tám


Bồ-Đề Dạ [46]
Án-- thiết na di tả, tát-phạ hạ.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn từ thân này cho đến thân thành Phật, Tâm-bồ-đề thường       
                      không lui sụt, nên cầu nơi Tay cầm Bất-Thối-Kim-Luân.”


Thần-chú rằng: Bồ-Đề Dạ [46]

Chơn-ngôn rằng: Án-- thiết na di tả, tát-phạ hạ.



Kệ tụng:


Thô tà hộ chánh kim cang luân
Ly mỵ vọng lượng câu độn hình
Bồ đề đạo tâm thường bất thoái
Kim thân nãi chí thành Phật thân



[

Dùng TRÍ KIM-CANG chuyển ĐẠI-PHÁP LUÂN, trừ TÀ-MA hộ CHÁNH PHÁP.
Tất cả  LY MỴ VỌNG LƯỢNG đều phải ẨN-HÌNH.
BẤT-THOÁI-KIM-LUÂN thủ nhãn làm cho BỒ-ĐỀ TÂM KIÊN CỐ,
Từ thân trong ĐỜI NẦY cho tới khi THÀNH PHẬT THÂN.

]



39. The Transformation Buddha  Atop the Crown Hand and Eye

The Sutra says: “For causing the ten-direction Buddhas to quicky come and rub one on
                         the crown, conferring a prediction, use the Transformation Buddha   
                         Atop the Crown Hand.”

The Mantra: Pu two ye.
The True Words: Nan. Wa dz li ni. Wa dz lan yi. Sa wa he.

The verse:

A transformation Buddha atop the crown; this dharma’s very rare;
Rescuing every living being, it pulls them from the mire.
The work complete, the result is full; transcend the Triple World,
And so obtain the Enlightened One’s prophecy of holiness.



Đảnh-Thượng-Hóa-Phật Thủ Nhãn ấn pháp
Thứ Ba Mươi Chín

Bồ-Ðà Dạ [47]

                                             Án-- phạ nhựt-rị ni,
                         phạ nhựt-lảm nghệ, tát-phạ hạ.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn 10 phương chư Phật mau đến xoa đầu Thọ-ký, nên cầu nơi
                        Tay Đảnh-Thượng-Hóa-Phật.”

Thần-chú rằng: Bồ-Ðà Dạ [47]

Chân-ngôn rằng: Án-- phạ nhựt-rị ni, phạ nhựt-lảm nghệ, tát-phạ hạ.
  

Kệ tụng:


Hóa Phật đảnh thượng pháp tối kỳ
Phổ cứu quần sinh xuất hãm ni
Công viên quả mãn siêu tam giới
Tức hoạch giác giả thọ thánh ký.

[

Hóa Phật trên “ĐẢNH” pháp diệu kỳ
Cứu độ “QUẦN-SANH” khỏi “TRẦM-LUÂN”
Công viên qủa mãn ra “TAM-GIỚI”
Tức được THỌ-KÝ thành CHÁNH-GIÁC.

]

40. The Grape Hand and Eye


The Sutra says: “For fruits, melons, and grains, use the Grape Hand.”



The Mantra: E syi two ye.

The True Words: Nan. E mwo la jyan di ni ning. Sa wa he.


The verse :

Gardens and orchards produce melons, peaches, and plums.
Leaves and branches are luxuriant and fresh;
With a bountiful harvest of the five grains the storehouse are overflowing.
With everything just as one wants it to be, peace everywhere prevails.




Bồ-Đào Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Bốn Mươi

A Tất Đà Dạ [66]
Án-- A-ma lã kiếm đế nể nảnh, tát-phạ hạ.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn có được cây trái ngũ cốc, nên cầu nơi Tay cầm chùm
                      Bồ-Đào.”


Thần-chú rằng: A Tất Ðà Dạ [66]

Chơn-ngôn rằng: Án-- A-ma lã kiếm đế nể nảnh, Tát-phạ hạ.


Kệ tụng :


Viên phố quả qua đào lý tân
Hướng vinh chi diệp thậm tiên minh
Ngũ cốc phong thu thương doanh túc
Bách ban như ý khánh thăng bình.


]

VƯỜN-TRỒNG cây ăn trái  như  là DƯA, ĐÀO và MẬN.
Cành lá đều XUM XÊ tươi tốt ;
Nên  được mùa thu hoạch, ngũ cốc đầy kho.
Vì NGŨ-CỐC ĐƯỢC DỒI DÀO,  cho nên dân chúng được AN-LẠC.

]


41. The Sweet Dew Hand and Eye


The Sutra says: “For satisfying the hunger and thirst of all living creatures, use the
                        Sweet Dew Hand.”

 
The Mantra: Swo lu swo lu.      

The True Words: Nan. Su lu su lu. Bwo la su lu.
                           Bwo la su lu. Su lu su lu ye. Sa wa he.



The verse:


Beings suffering from hunger and thirst look for relief.
The withered wood returns to life emitting rare light.
Compassion which carries all across infuses all creation,
As the Sweet Dew is sprinkled everywhere throughout the ten directions.




Cam-Lộ Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Bốn Mươi Mốt


Tô Rô Tô Rô [45]

                                    Án-- Tố rô tố rô, Bác-ra tố rô, Bác-ra tố rô,
tố rô tố rô dã, Tát-phạ hạ.


         
Kinh nói rằng: “Nếu muốn cho tất cả loài hữu tình đói khát được no đủ mát mẻ, nên
                        cầu nơi Tay hóa nước Cam-Lộ.”


Thần-chú rằng:  Tô Rô Tô Rô [45]

Chân-ngôn rằng:  Án-- tố rô tố rô, bác-ra tố rô,
                            bác-ra tố rô, tố rô tố rô dã, tát-phạ hạ.


( Có bản thiếu 2 chữ “TỐ RÔ” )

Kệ tụng:

Cơ khát hữu tình vọng thanh lương
Khô mộc trùng sinh phóng dị quang
Phổ khánh từ bi sâm tạo hóa
Cam lộ thiên lệ tế thập phương.


]

Chúng-sanh ĐÓI KHÁT cầu cứu độ.
Như Cây khô nhờ nước CAM-LỘ, được sống lại càng thêm tươi tốt dị thường.
Đại-từ Đại-bi phổ độ khắp PHÁP GIỚI chúng sanh.
Như một trận MƯA Cam-lộ, làm cho 10 PHƯƠNG chúng sanh được NO ĐỦ MÁT MẼ.
]


42. The Uniting and Holding Thousand Arms Hand and Eye
           

The Sutra says: “For subduing hateful demons in the Three Thousand Great Thousand
                        worlds, use the Uniting and Holding Thousand Arms Hand.”


The Mantra: Mwo pe li sheng jye la ye.

The True Words: Nan. Dan ni ye two. Wa lu jr di.
                         Shr wa la ye. Sa pe du shai.
                         Ja ming he mi ye. Sa wa he.



The verse :


A thousand hands pervade the body, wonder beyond compare;
He vanquishes the demon hordes, protecting the trichiliocosm.
Causing the deviant to return to the proper and cultivate wholesome dharmas,
He proclaims the Mahaprajna, which is apart from words.


         Tổng-Nhiếp-Thiên Tý Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Bốn Mươi Hai


Ma Bà Lỵ Thắng Yết Ra Dạ [74]


Đát nể dã thá, phạ lồ chỉ đế, thấp phạ ra dã,
tát bà đốt sắc, tra ô hạ di dả, Sá-phạ hạ.

---o0o---


Kinh nói rằng: “Nếu muốn hàng phục ma oán trong cõi Đại-thiên, nên cầu nơi Tay
                      Tổng-Nhiếp-Thiên-Tý-Thủ.”

Thần-chú rằng: Ma Bà Lỵ Thắng Yết Ra Dạ [74]

Chơn-ngôn rằng: Đát nể dã thá, phạ lồ chỉ đế, thấp phạ ra dã,
                           tát bà đốt sắc, tra ô hạ di dả, Sá-phạ hạ.


Có bản Việt-văn thiếu 4 chữ tát bà đốt sắc, còn bản Anh-văn thì có thêm chữ Án-- (Nan.)  


Kệ tụng :

Thủ nhãn biến thân diệu vô biên
Hàng phục chúng ma trấn tam thiên
Khảo tà quy chánh tu thiện pháp
Ma ha bát nhã nan ngôn tuyên.


[

TAY MẮT hóa THÂN diệu khó lường
Hàng phục chúng ma, hộ TAM THIÊN
Cải tà qui chánh tu thiện pháp
Ma Ha Bát Nhã, THỂ VÔ NGÔN.

]


KINH VĂN:

- Này A Nan! Những việc có thể mong cầu như thế, kể có ngàn điều. Nay ta chỉ nói lược qua chút ít phần thôi. 

Khi ấy Nhựt Quang Bồ Tát vì người thọ trì Đại Bi Tâm đà ra ni nói đại thần chú để ủng hộ rằng: 


Nhựt-Quang Bồ-tát Đà-ra-ni



Nam mô Bột-đà cù na mê. Nam mô Đạt-mạ mạc ha đê. Nam mô Tăng-già đa dạ nê.

Đ chỉ bộ tất tát đốt chiêm nạp mạ. 




Nhựt Quang Bồ Tát bạch Phật: 

- Bạch đức Thế Tôn! Tụng chú này diệt được tất cả tội, cũng đuổi được ma và trừ thiên tai. Nếu kẻ nào tụng chú này một biến, lễ Phật một lạy, mỗi ngày chia ra làm 3 thời tụng chú lễ Phật như thế, trong đời vị lai tùy theo chỗ thọ thân, thường được tướng mạo xinh đẹp, được quả báo đáng vui mừng. 

Nguyệt Quang Bồ Tát cũng vì hành nhơn mà nói đà ra ni để ủng hộ rằng: 


Nguyệt-Quang Bồ-tát Đà-ra-ni

 

Thâm đê đế đồ tô tra. A nhã mật đế ô đô tra. Thâm kỳ tra. Ba lại đế. Gia di nhã tra ô đô tra. Câu la đế tra kỳ ma tra. Sá-phạ hạ. 



Nguyệt Quang Bồ Tát lại bạch Phật: 

- Bạch đức Thế Tôn! Tụng chú này 5 biến, rồi lấy chỉ ngũ sắc xe thành sợi niệt, gia trì chú vào, buộc tréo nơi tay, chú này do 40 hằng sa chư Phật đời quá khứ đã nói ra, nay tôi cũng nói để vì các hành nhơn mà làm duyên ủng hộ. Chú này có công năng trừ tất cả chướng nạn, tất cả bịnh ác, xa lìa tất cả sự sợ hãi. 

Đức Phật bảo ngài A Nan: 

- Ông nên dùng lòng trong sạch tin sâu mà thọ trì môn Đại Bi tâm đà ra ni này và lưu bố rộng ra trong cõi Diêm Phù Đề, chớ cho đoạn tuyệt. Đà ra ni này có thể làm lợi ích lớn cho chúng sanh trong 3 cõi. Tất cả bịnh khổ ràng buộc nơi thân, nếu dùng đà ra ni này mà trị thì không bịnh nào chẳng lành, dùng đại thần chú này tụng vào cây khô, cây ấy còn được sanh cành lá, trổ bông, trái, huống chi là chúng sanh có tình thức ư? Nếu thân bị đại bịnh, dùng chú này mà trị không lành, lẽ ấy không bao giờ có. 

Này thiện nam tử! Sức oai thần của Đại Bi tâm đà ra ni không thể nghĩ bàn! Không thể nghĩ bàn! Khen ngợi không bao giờ hết được, nếu chẳng phải là kẻ từ thời quá khứ lâu xa đến nay đã gieo nhiều căn lành, thì dù cho cái tên gọi còn không được nghe, huống chi là được thấy! Nay đại chúng các ông, cả hàng trời, người longthần, nghe ta khen ngợi phải nên tùy hỉ. Nếu kẻ nào hủy báng thần chú này tức là hủy báng 99 ức hằng hà sa chư Phật kia. Nếu người nào đối với đà ra ni này sanh nghi không tin, nên biết kẻ ấy sẽ vĩnh viễn mất sự lợi ích lớn, trăm ngàn muôn kiếp không bao giờ nghe thấy Phật, Pháp, Tăng, thường chìm trong tam đồ không biết bao giờ mới được ra khỏi. 

Khi ấy, tất cả chúng hội, Bồ Tát Ma ha tát, Kim Cang mật tích, Phạm vương, Đế Thích, tứ đại thiên vương, thiên, long, quỷ thần, nghe đức Như Lai khen ngợi môn đà ra ni này xong, thảy đều vui mừng, y lời dạy mà tu hành 

 

KINH THIÊN-THỦ THIÊN-NHÃN

QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT QUẢNG-ÐẠI VIÊN-MÃN

VÔ-NGẠI ĐẠI-BI-TÂM ÐÀ-RA-NI


 CHUNG


PHẦN CHÚ THÍCH

 


(58) Ngũ vị tân: hành, hẹ, tỏi, nén, hưng cừ (hai thứ sau nước ta không có). 

(59) Bạt chiết la (vajra): dịch là Kim Cang Xử, đây cũng là một loại chày Kim Cang. 

(60) Bình quân trì dịch là tháo bình, tịnh bình, tức là bình để rửa tay

 

Phần Đại-Bi

Trì-Nghiệm

 

Thanh Biện Luật sư, người xứ Tây Thiên Trúc, sức học uyên bác, rất thâm về vô tướng tông. Các ngoại đạo nghe danh, đến vấn nạn đều bị ngài dùng nghĩa không mà phá tất cả. Có một lần, luận sư gặp một nhà ngoại đạo nổi tiếng là giỏi, 2 bên tranh biện nhau hơn nửa ngày, ngoại đạo bị khuất lý mà vẫn cố chấp không chịu thua. Do đó, tự thân bỗng biến thành đá. Đến 6 tháng sau, nghe sấm nổ mớI phục nguyên lại thành người như trước.

Về sau, ngài xem bộ luận về Hữu Tướng Tông của Hộ Pháp Đại Sư, đem nghĩa học của mình đối chiếu vẫn không phá hoại được, mới than rằng: 'Nếu không phải đức Di Lặc ra đời, thì ai giải quyết được mối nghi ngờ của ta?' Nhân đó, ngài đến trước tượng Quán Tự Tại Bồ Tát, tụng chú Đại Bi tùy tâm đà ra ni 3 năm. Một đêm, đức Quán Thế Âm Bồ Tát, hiện sắc thân tốt đẹp đến hỏi: 'Ngươi tụng chú để mong cầu điều chi?' Luận sư đáp: 'Con nguyện lưu trụ thân đợi đến lúc Từ Thị Như Lai ra đờI để thưa hỏi về giáo nghĩa'. Bồ Tát nói: 'Thân người mong manh, cõi đời hư huyễn, sao không tu thắng hạnh cầu mong lên trời Đâu Suất, chẳng là mau gặp gỡ hơn ư?' Ngài thưa: 'Đức Di Lặc tuy hiện trụ nơi nội viện cung trời thứ tư, nhưng chưa thành Phật, vì thế con muốn đợi đến lúc ngài hiện thành chánh giác nơi cõi nhơn gian. Chí con đã quyết định, không thể lay chuyển'. Bồ tát bảo: 'Đã như thế, ngươi nên đi qua thành phía nam xứ Đại An Đạt La, thuộc về miền nam Thiên Trúc. Cách đó không xa, có một tòa sơn nham, chính là chỗ ở của thần Chấp Kim Cang. Sau khi đến nơi, ông nên đối trước sơn nham tụng chú Chấp Kim Cang Thần đà ra ni, sẽ được toại nguyện'. 

Luận sư vâng lời, đi đến nơi, hành trì như thế. 3 năm sau, thần hiện ra và hỏi: 'Ông cầu nguyện điều chi?' Đáp : Tôi vưng lời đức Quán Thế Âm Bồ Tát mách bảo, đến đây trì tụng, nguyện lưu thân này sống mãi đợI đến khi Phật Di Lặc ra đời, xin tôn thần cho tôi được thành tựu như ý muốn'. Chấp Kim Cang thần bảo: 'Trong sơn nham này có cung điện của thần A Tu La, ông nên gia trì chú Đại Bi trong hạt cải trắng, rồi liệng vào thì cửa đá sẽ mở. Sau khi ấy, ông nên đi thẳng vào trong, sẽ có phương tiện để cho ông trụ thân lâu dài mà chờ đợi'. Luận sư hỏi: '
trong cung động, cách biệt ngoài trần, khi Phật ra đời làm sao tôi được biết?' Thần nói: 'Chừng ấy, tôi sẽ cho ông hay'. 

Ngài Thanh Biện lại y lời, tinh thành tụng chú trong hạt cải 3 năm, rồi liệng vào sơn nham, bỗng thấy vách đá mở ra, trong ấy hào quang chiếu sáng. Lúc bấy giờ, có rất đông đại chúng tề tựu đến xem, bàn bàn luận luận quên cả trở về. Luận sư tướng trạng an lành, buớc vào cửa đá, rồi day lại nói: 'Tôi nguyện cầu đã lâu, muốn trụ thân này chờ đức Từ Thị ra đời, nhờ sức thánh linh, bổn nguyện từ đây đã toại, vậy đại chúng nên theo tôi, để được ngày kia thấy Phật nghe pháp'. Trong chúng nghe nói sợ hãi, cho là hang loại độc long, đi vào chắc mất thân mạng. Luận sư đôi ba phen gọi bảo, chỉ có 6 ngườI chịu đi theo mà thôi. Ngài từ tạ rồi dẫn 6 ngườI thong thả đi vào trong, cửa đá liền khép lại. 

Lúc ấy đại chúng ở ngoài thấy vậy hết sức hối tiếc, trách mình đã nghĩ nói lỗi lầm. (trích Đường Tây Vực Ký) 

Ở nước Ma Già Đà xứ Tây Thiên Trúc, có một người phật tử tại gia, tánh ưa sắc đẹp. Một hôm, nhân xem kinh thấy nói hàng A Tu La, người nam tuy xấu, nhưng ngườIinữ lại xinh tốt tuyệt bậc, trong lòng sanh niệm mến thích, ước làm sao cùng được kết mối lương duyên. Không bao lâu, lại nghe nhiều vị bảo trong núi nọ có cung điện A Tu La rất nguy nga tráng lệ, báu lạ như thiên cung, liền quyết tâm trì chú Đại Bi 3 năm, cầu mong được viếng cảnh mầu để thỏa lòng ước nguyện khi trước. 

3 năm đã mãn, ngườI ấy từ tạ thân hữu, và gọI một tên đệ tử cùng đi theo. Khi thầy trò đi đến trước núi, chí tâm tụng chú cầu nguyện, bổng cửa đá vụt mở, trong ấy lộ ra cung điện có quỷ thần canh giữ cực nghiêm. Vị phật tử liền bước đến nói rõ bổn nguyện của mình: trì chú muốn kết duyên cùng thần nữ A Tu La, xin nhờ thông báo, và thỉnh ý giùm. Kẻ giữ cửa vào thưa lại. A Tu La nữ nghe nói tỏ ý vui đẹp, hỏi: Đi đến có mấy ngườI? Đáp: Thưa hai người. Thần nữ bảo: Ngươi ra thuật lại ý ta đã thuận. Thỉnh ngườI trì chú mau vào, còn ông đồng bạn hãy tạm đứng ngoài cửa. Kẻ giữ cửa ra thưa lại, vị Phật tử liền đi vào trong. 

Nhìn theo thầy mình đi rồi, người đệ tử còn đang bàng hoàng, bất giác bỗng tự thấy đã trở về đứng ở phía nam của nhà mình hồi nào không hay. Từ ấy về sau, ông này đã mấy lần đến chỗ cũ, song chỉ thấy vách đá đứng sững. Mây khói mịt mù, không còn được nghe biết tin tức gì bên trong nữa. Nhân đó, người đệ tử phát tâm lìa nhà tu hành, nguyện trọn đời ở nơi già lam cúng dường ngôi Tam bảo. 

Khi ngài Huyền Trang sang Ấn Độ du học, đến trụ ở chùa Na Lan Đà, nghe chính ngườI đệ tử này thuật chuyện lại (trích Tây Quốc Chí). 

Đời nhà Tống, Huệ Tài pháp sư, ngườI huyện Lạc Thanh, đất Vĩnh Gia, xuất gia hồi thuở còn bé, sau khi thọ đại giới, ngài đi tham học nhiều nơi mà không thông hiểu. Tự hận mình nghiệp chướng sâu dày, pháp sư thường tụng chú Đại Bi cầu cho được trí huệ. Hành trì đã lâu, bỗng một đêm ngài nằm mộng thấy một vị phạm tăng cao vài trượng, cởi áo ca sa đắp lên mình. Sau khi thức dậy, pháp sư thấy tâm trí tỏ sáng, những kinh nghĩa đã nghe từ trước đến giờ, một lúc đều nhớ rõ ràng thông suốt. 

Về sau, ngài tham yết Từ Vân Sám chủ, hằng theo phục dịch gần bên, chỗ giải ngộ càng thêm sâu sắc. Niên hiệu Trị Bình năm đầu, ngài trụ ở Pháp Huệ bảo các, được vua tứ hiệu Quảng Từ. Không bao lâu, pháp sư lại thối cư về ở bên tháp Lôi Phong, tinh tu về môn Tịnh Độ. Ngài thường đứng co một chân trì chú Đại Bi 108 biến, lấy đó làm thường khóa. Lại đứng dở chân 1 ngày 1 đêm niệm thánh hiệu Di Đà. Một đêm, pháp sư mộng thấy mình đến chỗ cảnh giớI sáng suốt, nhiều cung điện lâu các trang nghiêm, có người bảo: 'Tịnh độ trung phẩm là nơi thác sanh của ông'. 

Mùa xuân niên hiệu Nguyên Phong năm đầu, ngài vì hàng đạo tục ngàn người, truyền giới ở Lôi Phong, khi vừa mớì làm phép yết ma, nơi đỉnh tượng đức Quán Thế Âm bỗng phóng ánh sáng rực rỡ, đèn đuốc cùng ánh mặt trời thảy đều lu mờ. Ngài Thủ Nhứt Thiền Sư ở chùa Tịnh Từ vì đó làm bài Giới Quang Ký. 

Ngày 21 tháng 5 niên hiệu Nguyên Phong thứ 6, pháp sư tắm gội thay y phục lên giảng tòa, đề bài kệ khen Phật, rồi bảo đại chúng: 'Ta chắc chắn được sanh về Tịnh Độ', nói xong, ngồi yên lặng mà tịch, thọ được 86 tuổi. (trích Phật Tổ Thống Ký) 

Đời nhà Thanh, Ngô doãn Thăng người ở Huy Châu, huyện Hấp, lúc tuổi trẻ thường qua lại buôn bán ở 2 châu Tô, Hàng. Một hôm, nhân có dịp đi qua Hồ Khâu, tình cờ gặp vị tăng đang hóa trai. Vị này nhìn chăm chú vào mặt ông một lúc lâu rồi nói: Ngươi cũng có căn lành, nhưng tiếc vì đến lúc 29 tuổi bị nạn chết đắm. Biết làm sao? Doãn Thăng sợ quá, cầu phương pháp giải thoát. Vị tăng trầm ngâm giây phút rồi bảo: Từ đây về sau, ngươi nên giớI sát, phóng sanh, niệm Phật và trì chú Đại Bi, may ra có thể khỏi được. Ngô Doãn Thăng y lờI, về nhà trì chú, niệm Phật và thường lấy đó khuyên người. 

Qua năm 29 tuổI, ông thuê thuyền từ Hàng Châu về quê quán, bạn đồng hành có 16 người. Thuyền ra đi được vài mươi dặm, bỗng gió to sóng lớn nổI lên, thế rất nguy cấp. Doãn Thăng chợt nhớ lờI vị tăng nói khi trước, vộI vã chắp tay tụng chú, niệm Phật. Giây phút thuyền chìm, tất cả ngườI đi trong ấy đều bị sóng gió trôi giạt. Trong lúc hôn mê, ông bỗng nghe tiếng nói: Ngô Doãn Thăng có công trì chú niệm Phật và khuyên ngườI, được khỏi tai nạn này! Mở mắt tỉnh ra, nhìn xung quanh, ông thấy mình đã được dân chài lướI vớt lên bờ, y phục ướt đẫm, mũ giày đều bị nước cuốn đi mất, duy nơi tay còn cầm chắc xâu chuỗi 18 hột thường dùng để tụng niệm hằng ngày. Hỏi ra, thì 16 ngườI kia đã bị nước cuốn đi không tìm thấy tung tích. 

Từ đó về sau, ông tin tưởng công đức niệm phật, trì chú không thể nghĩ bàn, từng dùng hương viên đốt nơi cánh tay thành bốn chữ 'cầu sanh Tây phương'. Khi gặp ai ông cũng nói lý nhân quả, khuyên việc tu hành. Có được tiền, ông làm những công đức: tạo tượng, cất chùa, phóng sanh, bố thí, cùng các việc phước thiện khác. Danh lành của ông càng lúc càng truyền xa, cho đến tại vùng Hàng châu, tên Ngô Doãn Thăng đàn bà, trẻ con đều biết.. 

Ngày mùng một tháng năm, niên hiệu Đạo Quang thứ 9, khi lâm chung, ông giữ chánh niệm phân minh, tự nói: 'Tôi thấy vô số Bồ Tát đi kinh hành ở trước mặt tôi' Nói xong, ngồi yên mà qua đờI, năm đó ông được 66 tuổI (trích Nhiễn Hương Tục Tập) 

Thời Trung Hoa Dân Quốc, ở Thai Châu có vị tăng hiệu Thích Kim Trược, xuất gia nơi chùa Diên Thọ hồi 8 tuổI, đến 20 tuổI, thọ đại giới tại chùa Quốc Thanh. Trên đường tu hành, vị đại đức thầy thế độ của ông, chỉ khuyên tụng chú Đại Bi và trì thánh hiệu Quán Thế Âm, y lời mỗI ngày sư tụng chú 48 biến, ngoài ra chỉ chuyên tâm niệm thánh hiệu không cho gián đoạn. Trì tụng lâu ngày, những thói quen trần nhiễm lúc trước lần lần tiêu mòn, tâm tánh lần lần tỉnh sáng, ông xem danh lợi cuộc đời như mây bay bọt nước. Sư thường vì ngườI trị bịnh rất là hiệu nghiệm, nhưng không thọ tiền thù đáp. Có nhiều kẻ cầu hỏi xin truyền cho phương pháp, ông bảo: 'Tôi chỉ trì chú Đại Bi và niệm Quán Thế Âm mà thôi'. Trong năm Mậu Thìn (dân quốc), sư trụ ở một am nhỏ, ban đêm bị ăn cướp vào khảo tiền. Sau khi chúng xét khắp am, thấy không có chi, nổI giận, đâm ông một dao ở tay mặt và hai dao ở bên trán. Thương thế tuy nặng, nhưng sư không chết. Vết đâm cũng dần lành, để lại ba dấu thẹo lớn ăn sâu vào. Đây cũng là nghiệp trái nhiều kiếp, do công đức trì niệm, nên chuyển quả báo nặng thành ra quả nhẹ ở hiện đời. Mùa hạ năm Kỷ Tị, sư đến Ninh Ba định an cư ở chùa A Dục Vương, nhưng vì số dự chúng đã đủ, mấy lần xin gia nhập, cũng không được hứa nhận. Chưa biết sẽ đi về đâu, ông ngồi tĩnh tọa trọn nửa ngày, không có lời hờn trách, sắc oán hận. Vị giám tự tăng thấy thế, đưa sư đến tạm ở nơi Dưỡng tâm đường. Ngày mãn hạ, vị tăng quản đường lại theo quy lệ, không cho ở. Sư bảo: 'Chẳng bao lâu tôi sẽ sanh về Tây phương, xin từ bi cho tôi lưu lại trong một thời gian ngắn nữa'. Đến ngày 19 tháng 10, sư nói vớI đại chúng rằng: 'Trong vòng 3 hôm nữa, tôi sẽ thoát ly biển khổ, sanh về Cực Lạc, xin khuyên bạn đồng tu thành tâm trì chú niệm Phật hoặc niệm Quán Âm, quyết định sẽ được vãng sanh. Vì Phật không bao giờ nói dối'. Lại bảo đức Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm đài bạc thường hiện ở trước tôi'. Chúng cho là lờI nói phô, tỏ vẻ không tin. Qua ngày 21, trước giờ ngọ, sư đắp y len chánh điện lễ Phật, lại đến trước vị tăng quản đường từ tạ, nói sau giờ ngọ thờI mình sẽ vãng sanh. Lúc ấy, mọI ngườI còn cho là lờI nói dối. œến giờ ngọ, sư cùng đại chúng thọ trai, ăn đủ hai chén như mọI ngày không giảm. Lại bảo bạn đồng liêu rằng: 'Theo quy lệ của nhà chùa, ngườI chết đưa thi hài vào núi sâu, tiền công khiêng đi phải bốn giác. Nay tôi không có vật chi, chỉ còn đôi dép, xin phụng tặng, nhờ thầy lo liệu giùm việc ấy' 

Quả nhiên, sau thờI ngọ một giờ, sư ngồi day mặt về Tây, an ổn mà hóa. (trích Du Huệ Úc Sao Tập) 

- Ấn Quang đại sư, một vị cao tăng cận đại ở Trung Hoa, thuở sanh bình, hết sức tự tu và hoằng hóa pháp môn tịnh độ, thường khóa của ngài ngoài thờI niệm Phật chánh thức, lại kiêm trì chú Đại Bi. Đại sư tu hành tinh tấn, sức từ bi cảm hóa đến hàng dị loại. 

Năm Dân quốc thứ 19, ngài trụ ở chùa Báo Quốc, tại Thái Bình, trong tịnh thất, bỗng sanh ra vô số rệp, nhiều cho đến nỗi nó bò lên song cửa, trên mặt bàn. Có mấy vị đệ tử lo nghĩ đại sư già cả, không kham chịu sự quấy nhiễu, đôi ba phen xin vào trong thất dọn bắt. Ngài không cho và bảo: 'Việc này chỉ trách mình kém đạo đức mà thôi. Thuở xưa một vị cao tăng cũng bị loài rệp phá rối, chịu không kham. Quở bảo nó phải dờI đi nơi khác, chúng liền đem nhau bò đi. Nay ta tu trì bất lực, nên không được sự cảm ứng như thế, lại còn nói gì?' Ròi đại sư vẫn an nhiên mà ở, không để ý đến. Ít lâu sau, loài rệp bỗng nhiên tuyệt tích, ngài cũng không nói cho ai biết. Lúc ấy, gần tiết Đoan Ngọ, Đức Sum pháp sư chợt nhớ đến việc trước hỏi thăm, ngài bảo: 'đã đi hết từ lâu, không còn con nào nữa'. Pháp sư cho là ngài lớn tuổI, mắt mờ yếu nên không thấy, quyết ý xin vào trong xem lại, quả nhiên chúng đã đi đâu hết sạch. Hay là nó cũng vì ngài dờI chỗ ư? 

Đại sư thường gia trì chú Đại Bi vào nước, gạo hoặc tro sạch để cứu những chứng bịnh mà các y sư đều bó tay, hiệu nghiệm lạ lùng. Một ngày, nơi lầu Tàng Kinh của chùa phát hiện ra vô số mối trắng, đại sư ở trong thất, nghe nói, liền trì chú vào nước bảo rưới lên chú nguyện, loài mối cũng kéo nhau đi mất. 

Những đệ tử ở xa bị bịnh dây dưa không hết, ngài khuyên nên trì chú vào gạo nấu ăn cho đến chừng nào hết bịnh mới thôi. Phương pháp đó gọi là Đại Bi Phạn. Cách nấu cơm, theo đại sư, nên khéo nấu gạo nước cho vừa chừng, đừng đổ nước nhiều rồi chắt ra, vì như thế đã hao củi lại mất chất bổ trong cơm, làm phí phạm của tiền mà tổn phước. Thuở còn nhỏ, ngài hay đau yếu, có ngườI giỏi về tướng pháp cho rằng chỉ thọ đến 38 tuổI là cùng. Nhưng sau đại sư sống khoẻ mạnh đến 80 tuổI mới vãng sanh. NgườI chí tâm tu niệm hay cải đổI số mạng. Việc ấy quả có như thế ư? (trích Ấn- Quang Đại Sư truyện ký) 



Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Ðại Viên Mãn Vô Ngại Ðại Bi Tâm Ðà La Ni Kinh

Hán dịch: Ðường, Tây Thiên Trúc, Sa Môn Già Phạm Ðạt Ma

Thiển giảng: Vạn Phật Thánh Thành, Hòa Thượng Tuyên Hóa.

Bồ Đề Hải 88

 

KINH VĂN:

 

Âm: A-NAN BẠCH PHẬT NGÔN: “THẾ TÔN! THỬ BỒ-TÁT MA-HA-TÁT DANH TỰ HÀ ĐẲNG, THIỆN NĂNG TUYÊN THUYẾT NHƯ THỊ ĐÀ-LA-NI?”

 

PHẬT NGÔN: “THỬ BỒ-TÁT DANH QUÁN THẾ ÂM TỰ TẠI, DIỆC DANH NHIÊN SÁCH, DIỆC DANH THIÊN QUANG NHÃN.

 

THIỆN NAM TỬ! THỬ QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT, BẤT KHẢ TƯ NGHỊ UY THẦN CHI LỰC, DĨ Ư QUÁ KHỨ VÔ LƯỢNG KIẾP TRUNG, DĨ TÁC PHẬT CÁNH, HIỆU CHÁNH PHÁP MINH NHƯ LAI, ĐẠI BI NGUYỆN LỰC, VI DỤC PHÁT KHỞI NHẤT THIẾT BỒ TÁT, AN LẠC THÀNH THỤC CHƯ CHÚNG SANH CỐ, HIỆN TÁC BỒ TÁT.”

 

Nghĩa: A Nan bạch cùng Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Vị Bồ Tát Ma Ha Tát này tên gọi là gì mà khéo tuyên nói Đà La Ni như thế?”

 

Đức Phật bảo: “Vị Bồ Tát này tên là Quán Thế Âm Tự Tại, cũng tên là Nhiên Sách, cũng tên là Thiên Quang Nhãn.

 

“Này thiện nam tử! Vị Bồ Tát Quán Thế Âm này thần thông oai lực không thể nghĩ bàn, trong vô lượng kiếp về trước đã từng thành Phật, hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai. Vì nguyện lực đại bi, vì muốn làm duyên phát khởi cho tất cả các Bồ Tát, an vui thành thục cho mọi chúng sanh, mà hiện làm Bồ Tát.”

 

LƯỢC GIẢNG:

 

A Nan bạch cùng Đức Phật rằng… Tôn giả A Nan vốn là em bà con của Phật và là con của vua Hộc Phạn; trong Phật Giáo, ngài A Nan là bậc đa văn đệ nhất--đứng đầu về đa văn. Thế nào gọi là ―đa văn”? ―Đa văn” tức là nghe được nhiều, sức ghi nhớ cũng là đệ nhất. Ngài A Nan chỉ nghe qua một lần là liền ghi nhớ, không bao giờ quên. Vì sao Ngài có được trí nhớ mạnh mẽ như vậy? Đó là nhờ trong những đời ở quá khứ, Ngài đã từng tu Định lực và tu được rất nhiều. Do Định lực đầy đủ, cho nên Ngài không bị tán loạn; nhờ không tán loạn nên chỉ nghe qua một lần là nhớ mãi. Chính nhờ thế mà kinh điển do Đức Phật tuyên thuyết, ngài A Nan đều có thể ghi nhớ và chép lại toàn bộ, không sót một chữ.

 

 

Tướng mạo của Tôn giả A Nan rất giống Đức Phật--Phật có 32 tướng tốt thì A Nan cũng có được 30 tướng hảo, cho nên tướng mạo của A Nan đặc biệt viên mãn. Tên ―A Nan” vốn là phiên âm từ tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung Hoa là Khánh Hỷ [mừng vui]. Vì sao gọi là ―Khánh Hỷ”? Bởi vì Ngài A Nan ra đời nhằm ngày Đức Phật thành Đạo--Phật thì thành Đạo, A Nan cũng vừa chào đời, cho nên được gọi là Khánh Hỷ, toàn là chuyện vui cả.

Tôn giả A Nan đối trước Phật mà thỉnh hỏi rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! …” Thế nào gọi là Thế Tôn? ―Thế” là thế gian, ―tôn” là ―thế xuất thế chi tôn,” tức là sự tôn quý nhất trong thế gian và xuất thế gian. “Vị Bồ Tát Ma Ha Tát này tên gọi là gì mà khéo tuyên thuyết Đà La Ni như thế?” Chẳng hay tôn danh của vị Đại Bồ Tát này là gì mà vị ấy có thể khéo léo diễn thuyết thần chú tổng trì như thế. ―Tuyên thuyết” chính là tuyên diễn, tuyên thuật, nói ra, thuật lại. ―Đà La Ni như thế” tức là Đà La Ni đã nói đến ở phần trước.

 

 

Đức Phật bảo, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trả lời ngài A Nan rằng: “Vị Bồ Tát này tên là Quán Thế Âm Tự Tại.” ―Quán,” tức là quán sát, cũng chính là dùng trí huệ năng quán của Bồ Tát để quán sát. Quán sát cái gì? Quán sát âm thanh của thế giới--âm thanh của thế giới cũng chính là cảnh giới sở quán. Cảnh giới sở quán của vị Bồ Tát này là gì? Đó là vô số cảnh giới của tất cả chúng sanh--tất cả những chúng sanh thiện, chúng sanh ác, chúng sanh mạnh, chúng sanh yếu, vô số chủng loại--âm thanh của hết thảy chúng sanh là cảnh giới mà Bồ Tát quán sát. Lấy trí tuệ năng quán để quán sát cảnh giới sở quán. Thế nhưng, ngay trong lúc này nếu không có định lực, thì sẽ như thế nào? Do Bồ Tát có đại định, cho nên đạt được tự tại; vậy sự tự tại này là gì? Đó cũng chính là biểu hiện của định lực! Nếu không có định lực thì sẽ không được tự tại; không tự tại thì sẽ bị tám gió (bát phong) làm lay chuyển, dao động, chao đảo.

 

 

Về Bát phong, tám thứ gió này, thì tôi đã giảng rất nhiều lần rồi, không biết là quý vị có còn nhớ hay không? Thôi thì hôm nay tôi giảng lại một lần nữa vậy. Bát phong chính là tám loại cảnh giới. Người không có định lực thì sẽ chạy theo tám loại cảnh giới; người có định lực thì sẽ không bị tám loại cảnh giới này làm cho dao động. Trước đây, Tô Đông Pha và Thiền Sư Phật Ấn thường hay gặp gỡ, đàm đạo với nhau. Tô Đông Pha ngày ngày ở tại Giang Nam ngồi tham thiền, cảm thấy cảnh giới của mình là cao nhất rồi. Một bữa nọ, ông cảm thấy như chính mình đang được ngồi trên tòa sen vàng, đạt tới cảnh giới ―như như bất động, liễu liễu thường minh” rồi vậy. Ôi! Loại cảnh giới này quả không còn gì cao hơn được nữa! Ông bèn viết một bài thơ, rằng:

 

 

Khể thủ Thiên Trung Thiên,

 

Hào quang chiếu đại thiên,

 

Bát phong xuy bất động,

 

Đoan tọa tử kim liên.

 

Nghĩa là :

 

Cúi lạy Thiên Trung Thiên,

 

Hào quang sáng đại thiên,

 

Tám gió khôn lay động,

 

Ngồi vững trên tòa sen.

 

―Khể thủ thiên trung thiên.” ―Khể thủ” nghĩa là khấu đầu, cúi lạy. ―Thiên Trung Thiên” tức là Phật--Phật là trời của trời, thánh của thánh, đối với cảnh giới cao nhất, thì không có cảnh giới nào cao hơn cảnh giới của Phật; trong cảnh giới thấp nhất, cũng không có cảnh giới nào thấp hơn cảnh giới Phật. Phật là tận cùng cõi hư không, bao trùm khắp Pháp Giới, cho nên không có cao, cũng chẳng có thấp.

 

 

Vậy, Tô Đông Pha hướng về Phật cúi đầu đảnh lễ và thấy rằng ―hào quang chiếu khắp đại thiên”--ông cảm thấy thân thể mình bỗng nhiên toả sáng và ánh sáng đó soi trời rọi đất, chiếu sáng khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Sau đó, ông nói rằng: ―Bát phong xuy bất động.” ―Bát phong” là gì? Bây giờ tôi sẽ giảng cho quý vị hiểu rõ. ―Bát phong” là tám thứ gió và đó là xưng (tán tụng), cơ (dèm pha), khổ (buồn khổ), lạc (vui sướng), lợi (lợi ích), suy (suy diệt), và đắc (được), thất (mất) ; cũng có sách nói là hủy (chê bai), dự (khen ngợi).

1)  Xưng là xưng tán, ca tụng, tâng bốc. Ví dụ có người khen ngợi quý vị rằng: ―Này cư sĩ, ông quả là người có tâm Bồ Đề rộng lớn. Chà! Ông đích thực là một vị hộ pháp vĩ đại, công đức này của ông thật vô cùng to lớn.” Cứ thế, bên trái thì người này đội cho quý vị một cái mũ cao, bên phải thì kẻ khác lại chụp lên đầu quý vị một cái nón cao chẳng kém--không biết người ta đã tặng cho quý vị bao nhiêu cái mũ cao nữa, mà quý vị đội lên thấy cao ngất trời, đến nỗi đâm thủng nóc của 33 tầng trời, thấu lên tới cõi trời 34 ! Lúc bấy giờ, quý vị thấy dương dương tự đắc: ―Wow ! Mình thật tài giỏi! Nếu không thì sao mọi người lại tấm tắc ngợi khen mình đến thế?” Nghĩ như thế thì trong lòng quý vị cảm thấy rộn ràng, háo hức, huơ chân múa tay. Thế nào gọi là hoa chân múa tay? Là tay thì vung vẩy tới lui, chân thì không ngớt nhảy nhót, nhảy nhổm lên rất thích thú. Đây đích thị là bị trúng gió rồi--bị ngọn gió ―tâng bốc” thổi trúng, bốc quý vị lên đến tận mây xanh! Quý vị vốn đã được đội cho chiếc mũ cao như vậy rồi, lại nhảy lên trời một cái là đến tận ―bán thiên vân” ngay ! Đây là ngọn gió ―xưng tán” đã thổi trúng quý vị rồi đó.

 

 

2)  Cơ tức là cơ phúng, cơ thích, có nghĩa là châm biếm, chế giễu người khác. Thế nào gọi là châm biếm? Chẳng hạn biết được quý vị tham cầu học Phật Pháp, có người liền ra vẻ trầm trồ: ―Vâng! Ông ấy đang học Phật Pháp. Đó là điều tốt đẹp nhất!” với một giọng điệu đưa đãi, nghe mà thấy xốn xang như bị người ta cầm dao chọc vào tai của quý vị vậy--đó chính là ‗cơ phúng‘ (châm biếm, châm chọc). Nói tóm lại, quý vị không muốn nghe về một đạo lý nào đó mà có người lại cứ kề tai kể lể, thóc mách hoài khiến cho quý vị cảm thấy khó chịu, liền bực bội bỏ đi. Thế là đã nổi giận rồi, một khi sự nóng giận đùng đùng nổi lên thì lửa vô minh bốc cao ngùn ngụt đến cả ba ngàn trượng. Đây chính là quý vị đã bị một trận gió cơ thổi trúng làm quý vị nổi giận.

 

3)  Khổ chính là rất khổ, rất rất khổ. Ở đây, không phải là nói đến thức ăn có vị khổ (đắng), mà là muốn nói về cái cảm giác vô cùng khổ não mà mình gặp phải. Cái ―Khổ” này chính là lo lắng; một khi lo lắng thì liền nổi giận; khi nổi giận thì máu trong người dường như đều cháy khô, cạn kiệt; khô cạn rồi, thì miệng cũng đắng, răng cũng đau, tai cũng ù cũng điếc, bao nhiêu bệnh tật đều dồn dập ập tới! Ngọn gió khổ này đã thổi tới cho quý vị biết bao nhiêu sự khổ đau, nào là chau mày cau có, mắt thì hoa, tai lại điếc, lại còn đau răng nữa. Đây chính là đau khổ !

 

4)  Lạc nghĩa là những việc đem lại cảm giác khoái lạc, mừng rỡ, vui sướng. Giả sử rằng tất cả những người mà quý vị gặp gỡ đều là người mà quý vị rất ưa thích, ai nấy đều đối xử với quý vị rất tử tế. Quý vị lại còn được ăn ngon, được mặc đẹp, được ở nhà cao cửa rộng, ra vào đều có xe đưa xe rước nườm nượp. Cho nên, khi ấy quý vị cảm thấy rất vui vẻ, sung sướng. Một khi đã vui thích rồi thì tâm hồn thấy lâng lâng bay bổng, đến nỗi bản thân mình là người như thế nào quý vị cũng quên bẵng! Vui quá, quên lo. Đây là quý vị bị ngọn gió lạc làm cho mê muội hồ đồ, tưởng chừng như mình đã thành tiên thành Phật rồi vậy. Lúc bấy giờ, quý vị sẽ không còn muốn tu hành nữa bởi vì quá vui sướng, phấn khởi! Vậy, khoái lạc cũng là một loại gió có thể làm lay động lòng người, quý vị đừng nên cho rằng được sống trong sự khoái lạc là một điều tốt đẹp.

 

 

5)  Lợi, chính là lợi ích, có được sự lợi ích, lợi nhuận. Ví dụ như quý vị mua cổ phiếu và trị giá lúc mua là 500 đồng. Không quá ba ngày sau, giá cổ phiếu tăng lên gấp bốn lần, thành ra giá trị là 2.000 đồng, tức là có lời rồi. Bấy giờ, quý vị cảm thấy phấn khởi: ―A! Phen này mình phát tài thật rồi!” Đây cũng chính là bị gió ―lợi” thổi trúng, làm cho quý vị động tâm.

 

6)  Suy chính là lụn bại, sa sút. Ví dụ như có 100 gian nhà lớn, có ngọn lửa không biết từ đâu đến thiêu rụi cả 100 buildings này, như thế gọi là suy. ―Suy” đem đến cho quý vị sự phiền não đau khổ, không an vui.

 

 

Đắc nghĩa là có được. Ví dụ như đang đi trên đường thì nhặt được năm trăm vạn đồng. Trong lòng cảm thấy rất vui mừng, đây gọi là ―đắc.”

 

8)  Thất là mất, sau khi quý vị đã ―đắc” được rồi, thì chẳng bao lâu lại bị mất đi, cho nên trong lòng cảm thấy không vui. Mới vui đó giờ lại buồn đó.

 

Hủy, tức là hủy báng, nói xấu, chê bai. Dự, tức là xưng tán, ca ngợi. Ý nghĩa của ―hủy, dự” và ―xưng, cơ” cũng chẳng sai biệt nhau bao nhiêu, do đó có thể đổi là ―xưng, cơ” hay là ―hủy, dự.” Nếu quý vị không có định lực, thì sẽ bị tám ngọn gió này làm lay chuyển. Thế nhưng, nếu quý vị có định lực, thì khi tám ngọn gió này ùn ùn kéo tới, quý vị sẽ chẳng bị lay động cũng chẳng bị chao đảo, dửng dưng như không có chuyện gì xảy ra—như thế mới gọi là ―bát phong xuy bất động.”

 

 

Tô Đông Pha tự cho rằng mình là bát phong xuy bất động, ―đoan tọa tử kim liên”. Ông ta ngồi ngay ngắn trên tòa sen tử kim liên, trong cảnh giới như như bất động, liễu liễu thường minh. A! Thật là cao diệu phi thường, ông ta cảm thấy thật là vi diệu đến không thể diễn tả được. Thế là ông ta liền viết xuống, rồi gửi cho Thiền Sư Phật Ấn, thỉnh ngài ấn chứng xem phải chăng ông đã được khai ngộ. Thiền Sư Phật Ấn rất thú vị, bèn phái một người thị giả mang bài thơ này về cho Tô Đông Pha; và ngài cũng chẳng nói gì cả mà chỉ phê vào mặt sau trang giấy có bài thơ đó bốn chữ. Bốn chữ này hoàn toàn chẳng có gì là cao thâm cả, mọi người đều có thể hiểu được, đó là: ―Đánh rắm! Đánh rắm!” Tô Đông Pha xem xong rất đỗi ngạc nhiên : ―A , ta làm bài thơ hay như vậy, sao Phật Ấn lại chê là đồ rắm thối? Quả là láo xược!”

 

 

Thế là không cần phải cả tám ngọn gió, chỉ mới có một ngọn gió—hai chữ ―đánh rắm”-- thôi đã làm cho Tô Đông Pha phảì lồng lộn, nhảy nhổm lên. Từ Giang Nam ông ta tức tốc bay qua Giang Bắc và đi ngay tới Chùa Kim Sơn, tìm gặp Thiền Sư Phật Ấn. Vừa vào đến cửa, ông ta hùng hùng hổ hổ quát lớn : ―Lão hòa thượng này, sao ông lại mắng chửi người ta như thế chứ ?”

 

 

-―A, tôi làm thơ hay như thế, đó là kiến giải công phu tu tập của tôi, tôi đạt đến trình độ nào thì viết ra bài thơ như thế ấy, tại sao ngài lại nói tôi là đồ rắm thối?”

 

Thiền sư Phật Ấn nói: ―Theo ý nghĩa của bài thơ mà ông làm thì ông đã đạt đến cảnh giới bát phong xuy bất động rồi, thế thì tại sao tôi chỉ nói có hai chữ, mà đã khiến cho ông phải lập tức băng sông vượt suối tìm đến tận đây?”

 

Tô Đông Pha nghe Phật Ấn nói như thế thì ngẩn người ra và cảm thấy hổ thẹn không còn lời nào để nói nữa, cảm thấy tự mình định lực còn kém cỏi ; nếu có đủ định lực thì bát phong không thể làm lay động, cho dù có bị Thiền sư Phật Ấn phê bình tệ hại hơn thế nữa vẫn có thể chịu được, chứ sá gì hai chữ ―rắm thối” này ! Tự nhận thấy mình công phu chưa thành ông vội vàng cúi đầu đảnh lễ, thỉnh Thiền sư chỉ bảo thêm cho, và sau đó trở về dụng công tinh tấn tu hành thêm lên.

 

 

Vì sao Tô Đông Pha lại tức tốc từ Giang Nam tìm đến Giang Bắc? Do ông ta chưa có được sự tự tại trước lời phê bình, chỉ trích. Nếu như ông giống Quán Thế Âm Bồ Tát, có sức năng quán sát, thì ông không cần lặn lội đến Giang Bắc. Cho dù Phật Ấn có nói ông ―rắm thối” cũng được, không ―rắm thối” cũng xong, Phật Ấn muốn nói thế nào cũng được, không liên quan gì đến ông cả, phải như thể ông không nghe thấy gì cả! Như thế mới thật sự là có công phu tu hành. Được như thế thì Thiền sư Phật Ấn mới bái phục ông. Đằng này, Thiền sư Phật Ấn chỉ cần xuất một chiêu thôi là ông đã bị đánh gục ngay. Điều đó cho thấy công phu tu hành của ông còn chưa tới đâu, chưa chứng ngộ được gì cả vậy.

               Cũng tên là Nhiên Sách.” Vị Bồ tát này thường cầm trong tay một sợi quyên sách. Trong 42 Thủ Nhãn không phải có một thủ ấn tên là Quyên Sách Thủ sao? Đó chính là Nhiên Sách. Nhiên Sách chính là cầm sợi dây quyên sách này. Ngoài ra, Bồ tát ―cũng tên là Thiên Quang Nhãn.” Ngài còn được gọi là Bồ tát Thiên Quang Nhãn.

 

Thiện nam tử!” Đức Phật gọi ngài A Nan: ―Thiện nam tử! Bồ tát Quán Thế Âm có sức oai thần không thể nghĩ bàn này, trong vô lượng kiếp về trước, trong nhiều đại kiếp không tính đếm được ở quá khứ Ngài đã thành Phật hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai. Vị Bồ Tát này vì nguyện lực đại từ bi, do không bỏ nguyện lực đại từ đại bi của mình, vốn là nguyên lực đại bi mà ngài đã phát nguyện trước kia, vì muốn làm duyên phát khởi cho tất cả Bồ tát. Ngài muốn khiến tất cả Bồ tát đều phát Bồ đề tâm, hành Bồ tát đạo, và vì muốn an lạc thành thục chúng sinh, cũng bởi Ngài muốn cứu độ chúng sinh cho mọi loài đều đạt được sự an lạc, cho nên Ngài hiện làm Bồ tát. Ngài vốn là Chánh Pháp Minh Như Lai, và nay Ngài thị hiện là Quán Thế Âm Bồ tát.

 

 

KINH VĂN:

 

Âm: “NHỮ ĐẲNG ĐẠI CHÚNG, CHƯ BỒ-TÁT MA-HA-TÁT, PHẠM THÍCH LONG THẦN, GIAI ƯNG CUNG KÍNH, MẠC SANH KHINH MẠN. NHẤT THIẾT NHÂN THIÊN, THƯỜNG TU CÚNG DƯỜNG, CHUYÊN XƯNG DANH HIỆU, ĐẮC VÔ LƯỢNG PHÚC, DIỆT VÔ LƯỢNG TỘI, MẠNG CHUNG VÃNG SANH A-DI-ĐÀ PHẬT QUỐC.”

 

Nghĩa: “Vậy ông và đại chúng, các hàng Bồ tát Ma ha tát, Phạm vương, Đế Thích, Long Thần đều nên cung kính, chớ sanh lòng xem thường. Nếu tất cả hàng trời, người thường cúng dường, chuyên tâm xưng niệm danh hiệu, thì sẽ được vô lượng phước, diệt vô lượng tội, lúc mạng chung sẽ được vãng sanh về cõi nước của Phật A Di Đà.”

 

LƯỢC GIẢNG:

 

Ông và đại chúng, hiện tại các vị, tất cả đại chúng có mặt và không có mặt trong pháp hội, cùng ―chư Bồ tát Ma ha tát,” tất cả các Bồ tát, đại Bồ tát, và ― Phạm Thích Long Thần.” Phạm chính là Đại Phạm Vương; Thích là Đế Thích. Đại Phạm Thiên Vương chính là vua của một cõi thanh tịnh trên trời, rất ung dung tự tại, nên còn gọi là Đại tự tại thiên. Thích là Đế Thích, tức là trời Đế Thích, cũng là chủ trong tất cả cõi trời; trong Chú Lăng Nghiêm, vị trời này có tên là Nhân Đà La--―Nam mô Nhân Đà La Da” chính là chỉ vị trời này. Long tức là loài rồng ở trên trời; Thần là nói chung tất cả các vị thần. Tất cả đều nên cung kính Quán Thế Âm Bồ tát, chớ sanh lòng xem thường Quán Thế Âm Bồ tát. Tất cả loài người ở thế gian và ở cõi trời nên thường cúng dường Quán Thế Âm Bồ tát, chuyên tâm xưng niệm danh hiệu của Quán Thế Âm Bồ tát, tất có thể đạt được phước đức vô lượng, có thể diệt trừ vô số tội lỗi, lúc mạng chung nhất định sẽ được vãng sanh về cõi nước của Phật A Di Đà. Vì thầy của Bồ Tát Quán Âm chính là Phật A Di Đà, nếu quý vị niệm danh hiệu của đệ tử Ngài, thì tương lai quý vị có thể được sanh về thế giới Cực Lạc, quốc độ của Ngài.

 

 

 

(còn tiếp)

 

 

Comments

Popular posts from this blog