TƯỞNG NIỆM

CỐ HÒA THƯỢNG THÍCH THIỀN-TÂM

(21-11-92 ÂL)

 

Khai Thi Về Kinh Thủ Lăng Nghiêm 



 MỤC LỤC 


I


ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG”



[1-10] ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG”

[11-20] ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG”

[21-30] ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG”

[31-40] ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG”

[41-50] ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG”

[51-60] ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG”

[61-70] ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG”

[71-80] ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG”

[81-84] ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG”



THE BODHISATTVA WHO REGARDS THE WORLD'S SOUNDS

Nam-mô Ðại-bi QUÁN-THẾ-ÂM Bồ-tát



THE VENERABLE TRIPITAKA MASTER HSUAN HUA

Ngài Tam-Tạng Pháp-Sư TUYÊN-HÓA


MANTRA ILLUSTRATIONS

Thần Chú Xuất-Tượng



11-20 GREAT COMPASSION MANTRA VERSES

21-30 GREAT COMPASSION MANTRA VERSES

31-40 GREAT COMPASSION MANTRA VERSES

41-50 GREAT COMPASSION MANTRA VERSES

51-60 GREAT COMPASSION MANTRA VERSES

61-70 GREAT COMPASSION MANTRA VERSES

71-84 GREAT COMPASSION MANTRA VERSES


II


THIÊN-THỦ THIÊN-NHÃN PHÁP-BỬU CHƠN-NGÔN-ĐỒ


[1-9] THIÊN-THỦ THIÊN-NHÃN PHÁP-BỬU CHƠN-NGÔN-ĐỒ

[10-19] THIÊN-THỦ THIÊN-NHÃN PHÁP-BỬU CHƠN-NGÔN-ĐỒ

[20-29] THIÊN-THỦ THIÊN-NHÃN PHÁP-BỬU CHƠN-NGÔN-ĐỒ

[30-42] THIÊN-THỦ THIÊN-NHÃN PHÁP-BỬU CHƠN-NGÔN-ĐỒ


III


KINH THIÊN-THỦ THIÊN-NHÃN

QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT QUẢNG-ÐẠI VIÊN-MÃN

VÔ-NGẠI ĐẠI-BI-TÂM ÐÀ-RA-NI

 

LỜI BẠT


I. PHẦN TỰ

II. PHẦN CHÁNH-TÔNG

III. PHẦN LƯU-THÔNG


NGHI THỨC



( PHÁT NGUYỆN TU THEO BỒ TÁT QUÁN-THẾ-ÂM)



IV


KINH

PHẬT-ĐẢNH TÔN-THẮNG

ĐÀ-RA-NI


 LỜI TỰA


I. PHẦN TỰ

II. PHẦN CHÁNH

III. PHẦN LƯU THÔNG


V


KINH NIỆM PHẬT BA-LA-MẬT


DUYÊN KHỞI 


I. PHẦN TỰ

II. PHẦN CHÁNH-TÔNG


KHUYẾN PHÁT NIỆM PHẬT và ĐỌC TỤNG CHƠN NGÔN

III. PHẦN LƯU-THÔNG


NGHI THỨC

 

NIỆM-PHẬT 

ĐỌC TỤNG CHƠN-NGÔN

 

(PHÁT NGUYỆN NIỆM-PHẬT THEO TRƯỞNG-GIẢ DIỆU-NGUYỆT)


VI


PHẬT THUYẾT KINH A-DI-ĐÀ

 

 

Dao Tần, Tam-Tạng Pháp-Sư Cưu-Ma-La Thập dịch

Việt Dịch : HT.Trí-Tịnh

 

 

I. PHẦN TỰ

II. PHẦN CHÁNH-TÔNG

III. PHẦN LƯU-THÔNG



VII


MA-HA BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA TÂM KINH





HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH

PHÁT BỒ-ĐỀ-TÂM

 

NGÃ KIM TRÌ NIỆM A-DI-ĐÀ

TỨC PHÁT “BỒ-ĐỀ” QUẢNG ĐẠI NGUYỆN

NGUYỆN NGÃ ĐỊNH-HUỆ TỐC VIÊN MINH

NGUYỆN NGÃ CÔNG-ĐỨC GIAI THÀNH TỰU

NGUYỆN NGÃ THẮNG-PHƯỚC BIẾN TRANG-NGHIÊM

NGUYỆN CỘNG CHÚNG-SANH THÀNH PHẬT ĐẠO

 

Kệ Niệm Phật


(Hòa Thượng Thích Trí Tịnh soạn)


Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
Tâm tiếng hiệp khắn nhau                         (Hạ Thủ Công Phu)
Thường niệm cho rành rõ


Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ                          (Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)


Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
Nhất tâm Phật hiện tiền                            (Sự Nhất Tâm)
Tam-muội sự thành tựu


Đương niệm tức vô niệm                            (Lý nhất Tâm)
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
Chứng lý pháp thân hiện



Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
Cầu đài sen thượng phẩm                          
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)



Tâm Nguyện Của Dịch Giả

 

Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích

...........
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại V
ÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.


Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.


          Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
            (08-10-1989)

Thích Trí Tịnh
      Cẩn Chí



Ẩn-Tu Ngẫu Vịnh

Ẩn-Tu "TỨC PHÁT “BỒ-ĐỀ” QUẢNG ĐẠI NGUYỆN"

HT Thích Thiền-Tâm


 

ẨN-TU NGẪU VỊNH 

(HT. THIỀN-TÂM NHƯ Ý GIẢNG GIẢI)

 


PHÁP-YẾU-TU-HÀNH


H.T Thích-Thiền-Tâm

 

 

Yếu điểm của đường tu

Gồm hai phần Sự, Lý


 Lý tu là sửa tâm

Cho hợp với chân lý

Sự tu chỉnh ba nghiệp

Giúp chứng cảnh chân như


Sửa tâm là dứt trừ

Nghiệp tham, ái, nóng, giận

Si mê cùng tật đố

Ngã mạn với kiêu căng

Chớ chạy theo hình thức

Say đắm nẻo lợi danh

Chuộng địa vị, quyền hành

Khoe thông minh, tài giỏi

Phải sanh lòng giác ngộ

Niệm thanh tịnh từ bi

Dõng tiến mà kiên trì

Sáng suốt mà khiêm hạ

Tự nghĩ mình xưa nay

Ðã tạo nhiều tội chướng

Chịu nhẫn nhục, sám hối

Biết an phận, tùy duyên

Duyên tốt chẳng kiêu khoe

Duyên xấu không thối não

Bình tỉnh mãi tiến tu

Như bơi thuyền ngược nước

Về biển Tát Bà Nhã

Ðến Bảo Sở an vui

Ðó là phần tu tâm

Hợp với lý giải thoát

 

Sự tu là thân nghiệp

Lễ kính Phật sám hối

Khẩu nghiệp trì chú kinh

Hoặc niệm Phật khen ngợi

Ý  nghiệp giữ thanh tịnh

Mật tu môn Lục Niệm

Nguyện đền đáp bốn ân

Nguyện mình cùng chúng sanh

Sanh cõi vui thành Phật

Ðời đời gặp chánh Pháp

 Tu sáu độ muôn hạnh

Tâm Bồ Ðề độ sanh

Trần kiếp không thối chuyển

Tu Sự mà bỏ Lý

Làm sao mở chân tâm?

Tu Lý mà phế Sự

Cũng không thể thành Phật !

Tu Sự chẳng chấp TƯỚNG

Thì tức SẮC là KHÔNG

Tu Lý không bỏ Sự

Ðó tức KHÔNG là SẮC

Lý chính thật Chân-Không

Sự là phần Diệu-Hữu

Chân-Không tức Diệu-Hữu

Diệu-Hữu tức Chân-Không

Nếu chưa đạt lẽ nầy

Thà tu hành chấp CÓ

Ðừng cầu cao bác tướng

Mà lạc vào Ngoan-Không

Ðây chính hầm khổ đọa

Kẻ thông minh đời nay

Ða số mắc lỗi nầy

Xưa có sư Tông-Thắng

Tài huệ biện cao siêu

Vì ỷ giỏi kiêu căng

Nên bị nhục chiết phục

Hỗ thẹn muốn tự tận

Thọ thần hiện thân khuyên

“ Sư nay đã trăm tuổi 

Tám mươi năm lầm lạc

May nhờ gặp Thánh nhân

Huân tu mà học đạo

Tuy có chút công đức

Mà lòng hay bỉ ngã

Ỷ thông minh biện bác

Lấn người không khiêm hạ

Lời cao hạnh chưa cao

Nên phải bị quả báo

 Từ đây nên tự kiểm

Ít lâu thành trí lạ

Các THÁNH đều tồn tâm

NHƯ LAI cũng như vậy ”

Lại có kẻ đua tướng

Tranh Thượng Tọa ,Ni Sư

Mượn thuyết pháp, tụng kinh

Ðể mưu cầu lợi dưỡng

Dành đệ tử, chùa chiền

Lập bè đảng, quyến thuộc

Thấy có ai hơn mình

Liền thị phi tật đố

Hại Thầy Bạn, phản Ðạo

Lừa dối hàng tín tâm

Lời nói thật rất cao

Việc làm thật rất thấp

Lý Sự đều sai trái

Hạng ấy hiện rất nhiều

Tạo biển khổ thêm sâu

Khiến đau lòng tri-thức

Lý, Sự đại lược thế

 

Công đức làm sao được?

Phật là ÐẠI-Y-VƯƠNG

Pháp là DIỆU-TIÊN-DƯỢC

Là phương-thuật rất mầu

Là như-ý bảo châu

Hay trừ nạn nghèo khổ

Khiến cho được giàu vui

Hay trừ tất cả bệnh

Khiến mau được bình phục

Hay trừ nạn yểu số

Khiến thọ-mạng dài lâu

Hay khỏi các tai ách

Như bão lụt, binh lửa

Giặc cướp cùng tà ngoại

Ác thú với độc xà

Các yêu ma , quỷ mị

Nạn động đất, xe, thuyền

Những phù-chú ếm-đối

Ðều phá tiêu tan hết

Cho đến trừ tội chướng

Sanh trưởng phước huệ to

Cứu chúng đọa Tam Ðồ

Siêu lên bờ giải thoát

Chuyên tụng một phẩm Kinh

Một Chân-Ngôn, hiệu Phật

Thì thành tựu các nguyện

Thỏa mãn các mong cầu

Chỉ sợ người không tin

 Hoặc tin mà không sâu

Lại ngại không thực hành

Hoặc hành không bền lâu

Hoặc tuy hành bền lâu

Không chí tâm khẩn cầu

Chí tâm là không vọng

Trì niệm quên thân tâm

Lặng lẽ dứt phân biệt

Không trong, ngoài, người, cảnh

Khi đi, đứng, thức, ngủ

Chẳng bỏ câu trì niệm

Lúc hưỡn, gấp, an, nguy

Cũng vững vàng trì niệm

Cho đến khi sắp chết

Vẫn như thế trì niệm

Ðắc, thất đều do đây

Cần chi hỏi tri thức

Không hành như trên đây

Phật cũng khó cứu vớt

Huống nữa là phàm Tăng

Giúp ích được gì đâu

 

Nhớ lời Cổ Ðức dạy:

“Ta có một bí quyết

Khẩn thiết khuyên bảo nhau

Là hết lòng thành kính

Nhiệm mầu cực nhiệm mầu ”

Hãy ghi nhớ lời nầy

Lắng lòng suy gẫm sâu

 

Trời xanh tươi biếc một mầu

Ánh trăng vẫn sáng một mầu xưa nay

Mà sao đời đạo đổi thay

Cỏ hoa đượm nét u-hoài thờ-ơ

“Thuyết pháp bất đậu cơ

Chúng sanh một khổ hải ”

Ðời mạt suy thế đạo lại thêm thương

Sóng dồn bọt biển tà dương

Con thuyền cứu độ khuất đường vân yên

Bụi hồng tung gió đảo điên

Vô tình mai nở diệu hiền cành xuân.

 

Nam-mô Thánh Trí Hải Biến Chiếu Trang Nghiêm Vương Như-Lai.

 


Ẩn-Tu Ngẫu Vịnh

HT Thích Thiền Tâm

 



1.- Ẩn tu nào phải cố xa đời !

Mượn cảnh u-nhàn học đạo thôi !

Những thẹn riêng mình nhiều nghiệp chướng

Bốn ân còn nặng nghĩa đền bồi.

 

 

2.- Ẩn tu cảm xót biển trần-ai !

Sóng gió trầm luân mãi lạc loài

Thân khổ kiếp người muôn nỗi khổ !

Nghiệp đời vay trả, trả rồi vay !

 

 

3.- Ẩn tu hôm sớm niệm Di Đà

Lòng lặng mười muôn chẳng cách xa

Canh vắng giường thiền khi mãn định

Hoa sương cười nụ dưới trăng tà.

 

 

4.- Ẩn tu uổng tiếc bạn đồng hành !

Nói lý cao huyền đắm lợi danh !

Già, bịnh, đoạ sa, không phản tỉnh

Bóng câu mấy nỗi thoáng bên mành !

 

 

5.- Ẩn tu cõi tịnh nhẹ buông hồn !

Tưởng quán trời Tây nhớ Bảo-thôn

Ráng đỏ sắp đưa, vầng Nhật-lặn

Phất phơ tà áo gió hoàng hôn.

 

 

6.- Ẩn tu bền chí giữ công phu

Ba cõi không an lửa ngục tù !

Ngũ-dục, Hoàng-lương say gối mộng

Kiếp người dường một thoáng phù du !

 

 

7.- Ẩn tu riêng chạnh nỗi riêng mình

Túc trái gây nên, mối bất-bình

Tích phước tu-hành rồi tạo nghiệp

Cánh bèo trôi giạt biển phù sinh.

 

 

8.- Ẩn tu tưởng lại quả đời nay

Bao lớp gian truân nỗi đoạ đày !

Ẩn nhẫn trả xong tròn nghiệp trước

Dấu hồng chuyện cũ tuyết mờ bay !

 

 

9.- Ẩn tu nhớ đến đức sanh thành

Lắm lúc vì con chẳng tạo lành

Con lớn Mẹ Cha oằn gánh nghiệp

Bảo châu đền đáp cũng mong manh !

 

 

10.- Ẩn tu nguyện trả nghĩa song đường

Hồi hướng công phu mỗi khoá thường

Lại khuyến nghiêm-từ tâm đạo phát

Nương thuyền Phật huệ đến Tây-phương.

 

 

11.- Ẩn tu cửa đạo trải bao năm

Kinh nghiệm nhiều phen vẫn lạc lầm

Quen lắm lại càng thêm việc lắm

Cung đàn Hạ-Lý, mấy tri âm ?

 

 

 

12.- Ẩn tu ngùi ngậm bạn chung sơ

Nối gót ra đi chẳng hẹn chờ

Ngàn dặm cố nhân hồn lẫn vẫn

Mười năm việc cũ nửa phai mờ !

 

 

13.- Ẩn tu ưu cảm bởi nhơn tình

Điên đảo luân thường lại sát sinh

Khiến lắm tai trời thêm ách nước

Vầng hồng xế bóng sắp tây khuynh.

 

 

14.- Ẩn tu xét thấy chốn Tăng-Già

Ganh-hại thị-phi lắm bất hoà !

Danh vị, chùa chiền tranh đệ tử

Ưu Đàm, Lan Huệ héo mầm hoa.

 

 

15.- Ẩn tu rõ biết chuyển cơ trời !

Nhân-quả lọc thanh đạo với đời !

Tai biến dập dồn trăm cảnh chết

Núi xương sông máu, thảm đầy vơi !

 

 

16.- Ẩn tu nghĩ muốn thoát dòng mê !

Vững lái phong ba lúc nặng nề

Niệm Phật, niệm Tâm, tâm niệm Phật

Mây tan thấy rõ lối đi về.

 

 

17.- Ẩn tu Tín, Nguyện Niệm hồng danh

Thời mạt chướng sâu đạo khó thành

Chờ đến Liên-bang lên pháp-nhẫn

Đem thuyền Bát Nhã độ quần sanh.

 

 

18.- Ẩn tu Hoa Tạng mến môn huyền

Muốn kết Dao-đài hội Thắng Liên

Theo bước Đàm-Loan chơi bảo-các

Bích Câu lạc dấu, Giáng-Kiều tiên.

 

 

19.- Ẩn tu tế độ chẳng quên lòng !

Bi, Trí đôi đường phải suốt thông

Y sĩ nhân tâm dù đã sẳn

Còn rành nhân thuật mới thành công !

 

 

20.- Ẩn tu chi quản nệ công-lao

Mà chẳng tuyên dương tiếng Hải-trào

Sông lớn khơi nguồn từ núi thẳm

Xuống trần càng đục biết làm sao ?

 

 

21.-Ẩn tu Không có, Có mà Không !

Phương tiện, từ bi khó biết lòng !

Ngôn thuyết hãy còn Thân thuyết-pháp

Sấm mưa ẩn hiện bóng Thần Long.

 

 

22.-Ẩn tu mây trắng nhẹ phiêu diêu

Uốn khúc sông-in giãi lụa chiều

Thanh thoát gió chim reo nhạc Phật

Lầu-Tần không lại lắng hơi tiêu.

 

 

23.-Ẩn tu an tĩnh chốn cao nguyên

Hoa cảnh lòng trăng đẹp dịu hiền

Mây núi điệp trùng đêm tịch tịch

Câu Kinh tiếng Phật lại triền miên !

 

 

24.-Ẩn tu tịnh thấy cảnh am mây

Thanh tuấn thiền sư dáng huệ gầy

Kiếp trước Đạo Dung là tớ đó

Mà nàng Thiên Thụy hỏi ai đây ?

 

25.-Ẩn tu dũng-tướng nhớ thời xa

Hoàng-tộc triều Lê điện Thái-Hoà

Vì Trịnh – Tú – Loan duyên trái khiến

Nửa chừng xuân gảy gánh tài hoa !

 

 

26.-Ẩn tu được biết kiếp lâu xa

Từng ở Thiên cung cõi Đại La !

Đại Phước Lão-tiên là bạn cũ

Xuống tìm học Phật lạc mê hà.

 

 

27.-Ẩn tu luân chuyển nghĩ bao đời !

Thân-thế bèo đưa, sóng nghiệp trôi !

Lỗi bởi tâm mình chưa chuyển vật !

Những riêng thương thẹn khó nên lời.

 

 

28.-Ẩn tu nương tựa ánh từ quang

Lần lữa trần tâm lắng nhẹ tan

Năm tháng luyện thuần trâu hoá trắng

Sáo thanh một khúc cỏ hoa nhàn.

 

 

29.-Ẩn tu gió mát toả gương nga

Tĩnh-thất cài then tụng Pháp-Hoa

Bừng sáng thân tâm hoà ánh nguyệt

Tầm Dương bổng dứt hận Tỳ Bà !

 

 

30.-Ẩn tu niệm Phật cảnh sâu huyền !

Trong sáng linh hư hợp Tịnh, Thiền

Không hữu đều tan, Trung đạo dứt

Hoa vàng chợt nở Bảo trì liên !

 

 

31.-Ẩn tu niệm dứt tướng vào ra

Không thấy thân tâm Phật với ta

Thanh thoát rõ rành vang Thánh-hiệu

Trăm hoa đua sắc tiếng Oanh ca.

 

 

32.-Ẩn tu niệm chẳng thánh cùng phàm

Mắt huệ can chi dính mạt vàng ?

Hữu tướng tức đồng Vô tướng niệm

Chân Không huyễn sắc khắp bao hàm.

 

 

33.-Ẩn tu tuy biết ý cao siêu

Mà chẳng thích ưa lý luận nhiều

Căn tánh người nay đà kém loạn

Nói hay làm phỏng được bao nhiêu ?

 

 

34.-Ẩn tu ngại lỗi luận đua tranh

Nói cũng vì người thuyết khác hành

Thái cực ai-phân nhơn-ngã đó

Lạnh lùng huyễn lợi với hư danh !

 

 

35.-Ẩn tu suối bạc ánh màu ngân

Muốn gẫm gần xa chuyện túc nhân

Người cảnh ai bày vui với khổ

Hoa trăng cười cợt ý bâng khuâng.

 

 

36.-Ẩn tu thôi mặc dở hay đời

Chỉ ước lâm chung dự biết thời

Nương nguyện Phổ-Hiền sanh Cực-Lạc

Rồi dong thuyền độ khắp nơi nơi.

 

 

37.-Ẩn tu an phó bịnh suy già

Nhơn thế xưa nay vẫn thế mà

Giữ chắc hồng-danh thuyền tế độ

Muôn trùng bao quản ngọn phong ba !

 

 

38.-Ẩn tu suy gẫm sức hồng danh

Phước huệ tăng-kỳ kết tụ thành

Sáu chữ chí tâm tiêu vạn tội

Một câu chín phẩm thoát siêu sanh.

 

 

39.-Ẩn tu tuy chửa đến Tây Phương

Cành ngọc chim linh ứng mộng thường

Rõ biết tâm lành sanh cảnh tịnh

Quả nhân cảm hiện lẽ chiêu chương.

 

 

40.-Ẩn tu niệm Phật suốt thâu canh

Cam lộ từ răng đượm ngọt thanh !

Khát nước đã nhờ công đức thuỷ

Lam Kiều chi nhọc hỏi Vân Anh ?

 

 

41.-Ẩn tu chợt nhớ Hổ Khê xưa !

Suối bạc non xanh đệ nhứt thừa

Một giống Bạch Liên truyền đất Việt

Hương sen còn đậm hạt thu mưa !

 

 

42.-Ẩn tu riêng mến đạo Đông Lâm

Biển Phật thuyền Sen thật chẳng lầm

Liên lậu trước chùa ghi nhựt khoá

Đến nay còn dậy khúc Thanh âm.

 

 

43.-Ẩn tu trần niệm chẳng còn dư

Kinh điển dường quên, tám vạn tư

Chẳng biết Lư Sơn mày mặt thật

Chỉ nhân mình ở tại non Lư.

 

 

44.-Ẩn tu nghĩ chuộng sắc thanh-duyên

Thanh sắc đâu bằng cõi Bảo Liên

Sắc rực ánh vàng thanh suối ngọc

Tô Đà hương phạn lại tham thiền.

      -Ẩn tu nghĩ kẻ sắc thanh tranh

Thanh sắc đâu bằng cõi Thái Thành

Sắc đẹp ba hai thanh phạm tám

Ăn xong thiền duyệt lại kinh hành.

 

 

45.-Ẩn tu khuyên khách mến giang hồ !

Nên học Liên phương niệm Phật đồ

Về cõi Bảo Hoa đi dạo khắp

Muôn trời tịnh diệu nét Xuân tô !

 

 

46.-Ẩn tu lòng đạo sáng gương rằm

Bạn Cúc quê vàng cảnh vắng tâm

Cây biếc mây hồng che tĩnh xứ

Khói sương vùi dập mấy mươi năm.

 

 

47.-Ẩn tu Lan-Nhã ngắm tư bề

Ríu rít mây chim tiếng gọi về

Dâu biển người đời thương biến đổi

Đâu hay muôn cảnh vốn Bồ đề.

 

 

48.-Ẩn tu nhớ dạy Tịnh Liên Hoa

Trí Giả nguyên là Phật Thích Ca

Lại có Vĩnh Minh cùng Thiện Đạo

Tương truyền thân hóa của Di Đà

 

49.-Ẩn tu thấy nói Tổ bên Thiền

Long Thọ, Mã Minh chứng đạo huyền

Đều tín Liên tông khuyên NIỆM PHẬT

Sao hàng hậu học tạo khinh duyên ?

 

 

50.-Ẩn tu thương nghĩ cánh Nam tông

Tịnh độ cho là pháp viễn vông

Bác phá Đại thừa phi Phật thuyết

Yến Ly đâu biết dấu chim hồng ?

 

 

51.-Ẩn tu ngẫm diệu đạo Liên trì

Căn tiểu thừa nghi chẳng lạ gì ?

Thượng đức năm ngàn Linh Thứu hội

Thành quân bại Bắc rút lui đi.

 

 

52.-Ẩn tu chán kẻ nói loanh quanh

Đem hiệu Di Đà phối ngũ-hành

Bao-tử giả là ao Thất-bảo

Phật lành niệm Phật để làm danh !

 

 

53.-Ẩn tu than kẻ chấp ly kỳ

Không sắc thật quyền chẳng biết chi

Bảo Phật gỗ, đồng không độ lửa

Còn thân Phật đất, nước tan đi.

 

 

54.-Ẩn tu chẳng ngại hung yêu ma

Vì để biệt phân chánh với tà

Chỉ sợ cửa không hàng phá Kiến

Dắt người lầm lạc khó nhìn ra.

 

 

55.-Ẩn tu thời mạt nhớ Kinh ghi

Học đạo muôn ngàn ít ngộ kỳ

Duy niệm Hồng-danh cầu Tịnh-độ

Hiện đời giải thoát rất ly-kỳ.

 

 

56.- Ẩn tu xót kẻ học Như Lai

Thiền, Tịnh, thị phi chấp trước dày

Kiên cố đấu tranh đà hiện rõ

Đạo đời phân hóa cảnh thời nay.

 

 

57.-Ẩn tu ý Tổ cảm thông tri

Bi trí tuỳ cơ độ Mạt-thì

Đâu phải chấp đua như thế tục

Mà riêng khen Tịnh đạo huyền vi.

 

 

58.-Ẩn tu thời mạt nhớ câu than

Đức Tín Tỳ Kheo kém Thiện-nam

Cư-sĩ lại thua hàng tín-nữ

Thiên Như huyền ký để lời vàng.

 

 

59.-Ẩn tu lòng đạo muốn tăng cao

Phải quán tam đồ khổ lớn lao

Phát ý Bồ đề siêng niệm Phật

Bởi cơ nước lửa sắp dâng trào.

 

 

60.-Ẩn tu nhìn khắp cảnh ban mai

Người vật ra đường chim nhảy bay

Tất cả chỉ vì lo vóc huyễn

Nhọc, già, bịnh, chết mấy ai hay?

 

 

61.-Ẩn tu tục luỵ thấy muôn mầu

Trong cảnh giàu sang dễ bạc đầu

Việc đắc ý nên dừng nghĩ lại

Kiếp trần tạm gởi được bao lâu.

 

 

62.-Ẩn tu nhìn thế loạn đường tơ

Các nước phân tranh rối cuộc cờ

Đạo-pháp vang hồi chuông cảnh tỉnh

Mộng thành sấm dậy chẳng tan mơ.

 

 

63.-Ẩn tu niệm Phật gọi Liên-hương

Khắp nguyện đồng lên Tuyển-Phật trường

Hoàng Hạc lầu mây lòng chẳng tưởng

Non Tiên ba cõi vẫn vô thường.

 

 

64.-Ẩn tu thường thấy hạng ngu thành

Niệm Phật thiện chung hoặc vãng sanh

Khiến nghĩ làng tu huyền luận giỏi

Bởi đâu khi tịch chẳng an lành?

 

 

65.-Ẩn tu hằng tự nhủ riêng lòng (mình)

Đã biết đường Tây phải gắng công

Bình nhựt là nhân như chẳng thật

Lâm chung quả có nở Sen hồng.

 

 

66.-Ẩn tu quyết chí gạt trần tình

Mặc nỗi khen chê lẫn bất bình

Sức yếu phải cam phần kém yếu

Tình đời ví nhẹ đạo tâm sinh.

 

 

67.-Ẩn tu tưởng đến cảnh Lê-viên

Điệu múa Nghê thường đẹp áo Xiêm

Kim cốc sanh ca dìu dặt trổi

Mà nay suông lạnh ánh thu thiềm !

 

 

68.-Ẩn tu Chiêm-tộc nhớ Mường-Lan

Nữ chúa rừng xanh đẹp khác phàm !

Tướng sĩ trận voi uy-vũ thạnh

Nhạc mờ Phan Thiết núi sương lam !

 

 

69.-Ẩn tu liên tưởng dãy Giang Đông

Xích Bích trống quân dậy lửa hồng !

Tuyệt-đại song kiều, anh kiệt mất

Tài tình mấy đoạn phút hoàn Không.

 

 

70.-Ẩn tu Nguyễn Huệ nhớ Anh-hào

Điệp-điệp quân thanh, chiến cuộc thâu

Trúc kết sang sông mờ bóng cũ

Mây ngàn cỏ nội đỉnh Tây sầu !

 

 

71.-Ẩn tu tìm hỏi truyện Tây Thi

Dư lại hồn mai ánh nguyệt trì !

Hận nỗi ba sinh đâu vắng tá?

Thương tình một mối có ra chi?

 

 

72.-Ẩn tu tích cổ duyệt xa gần

Tan hợp bên trời áng bạch-vân !

Biển nổi dâu chìm duyên cảnh thế,

Bao giờ cảnh Phật tựa lầu ngân.

 

 

73.-Ẩn tu bốn mặt khói sương đầy

Hỏi gạn ai người niệm Phật đây?

Cười mỉm Duy Ma không phúc đáp

Song hồ nửa khép cánh am mây !

 

 

74.-Ẩn tu trì niệm cảnh hồn nhiên

Trong lặng âm-thanh vẫn dịu hiền

Đoan-đích tìm chi tin-tức thật?

Tiếng chuông đêm vắng đến ngư thuyền.

 

 

75.-Ẩn tu niệm Phật nhẹ lâng không

Hồn bướm Trang Chu tỉnh giấc nồng !

Ý vị âm thầm trăng tỏa sáng

Hình dung lóng lánh tuyết ngần trong.

 

 

76.-Ẩn tu đã có luỹ non mây

Cao thấp đồi xa ủng hộ bày

Trước mắt rõ ràng chân cảnh lộ

Màu thu lai láng nét thu gầy.

 

 

77.-Ẩn tu mưa phới khắp ngàn tiêu

Bát ngát lâm tuyền cảnh tịch liêu !

Tiếng gió canh thâu hoà tiếng Phật

Bên thềm hoa rụng ít hay nhiều.

 

 

78.-Ẩn tu ca nhạc có chim rừng !

Bay hót vần quanh tợ đón mừng

Đủ sắc phi-cầm, tranh vẽ đẹp

Điểm-tô cảnh Phật, một màu Xuân.

 

 

79.-Ẩn tu hoa cỏ dáng thờ ơ

Thời mạt nhơn tâm đã khác xưa

Lòng thú hình người, đầy lớp lớp

Cảnh đời gió gió, lại mưa mưa !

 

80.-Ẩn tu kham nhẫn cõi Ta Bà

Nỗi khổ muôn ngàn, khó kể ra

Cực Lạc niềm vui vui bất diệt

Khổ vui đều bởi tự nhân mà !

 

 

81.-Ẩn tu đàn suối cạnh triền non

Tươi tỉnh hoa ngàn tợ phấn son

Sáng lạ vừa tan vầng ráng đỏ.

Đẹp xinh lại hiện bóng trăng tròn !

 

 

82.-Ẩn tu ai bảo chẳng Di Đà

Thiện Đạo quang-minh niệm niệm ra

Khang Tổ mỗi câu sanh hoá PHẬT

Cười hàng ngu chấp cố dèm pha.

 

 

83.-Ẩn tu ai bảo niệm hồng danh

Không có Tây-phương chẳng vãng sanh

Liên hữu xưa nay nhiều hiện ứng

Thánh-Hiền-Lục đã chép ghi rành.

 

 

84.-Ẩn tu chân thật chớ bề ngoài

Tu dáng tu hình lạc-lối sai

Tu tánh tu tâm lên giải thoát

Khuyên làng tu Phật chớ khoe tài.

 

 

85.-Ẩn tu hiếu thuận niệm Di Đà

Siêu độ cửu huyền đến mẹ cha

Hiếu đây mới là chăn thật hiếu

Đời tươi như gấm, đạo như hoa.

 

 

86.-Ẩn tu xót cảnh đạo đời suy

Lý học Đông Tây đã dự tri

Thiên giáo chỉ rành cơ tận thế

Tiên ghi tận diệt đến thời kỳ.

 

 

87.-Ẩn tu lý đạo nói sao cùng !

Nhân-quả nghiêm minh xử lạnh lùng !

Tài, sắc, giàu, sang âu cảnh tạm

Sáng tươi chiều héo đoá Phù Dung.

 

 

88.-Ẩn tu thế chiến biết kỳ ba

Nước lửa sơn lâm khắp hải hà

Mấy cuộc lọc thanh đầy huyết-lệ

Bay hồn thảm khổ, lướt khôn qua

 

 

89.-Ẩn tu bom đạn, rõ điềm hung

Tan-tác thành đô quả đất rung

Đổi cảnh, đổi người, thời tiết đổi

Núi nhô, núi sụp, chuyện khôn cùng.

 

 

90.-Ẩn tu mạt-kiếp thấy lời ghi

Trước mất Lăng Nghiêm pháp diệu kỳ

Lần lượt các kinh đều diệt hết

Duy còn Phật hiệu độ cơ-nguy.

 

 

91.-Ẩn tu khuyên khắp sớm hồi đầu

Lìa khỏi dòng mê, sóng nước sâu

Phước huệ đủ trong câu niệm PHẬT

Tám muôn tư pháp cũng gồm thâu.

 

 

92.-Ẩn tu chầm chậm bóng dương đi

Ngoài cửa hoa nhàn liễu rũ mi

Đại-mộng hỏi ai người sớm tỉnh?

Ngày xuân chưa dễ hẹn tiên-tri !

 

 

93.-Ẩn tu khẩn nguyện khắp nơi-nơi

Niệm PHẬT xứng cơ lại hợp thời

Biển mộng hỏi ai, thuyền lạc bến

Sông mê này chút ánh sen rơi !

 

 

94.-Ẩn tu nghĩ tiếc bậc tài cao !

Biển luỵ trần ai đắm kiệt hào !

Giọt lệ Tần-Đình thương đất nước

Bên song kiếm ẩn thán công hầu !

 

 

95.-Ẩn tu nhìn lắm kẻ chơi vơi

Gào khóc quên tu cũng huyễn thôi !

Niệm PHẬT để cho tròn tánh PHẬT

Kiếp người chẳng uổng được thân người.

 

 

96.-Ẩn tu tâm PHẬT hội Tào Khê

Kiếp ngoại trời xuân sáng bốn bề

Hoa nở sắc hương thành Chủng trí

Gió thông kim cổ đạo Bồ-Bề.

 

 

97.-Ẩn tu giải đạo phải dùng lời

Biển lớp ngôn âm cảnh lẫn người

Tự xét đã riêng không sở đắc

Nói nhiều thêm lỗi vọng mà thôi.

 

 

98.-Ẩn tu phương tiện mượn thi ngâm

Thức ngộ mình người khởi đạo tâm

Đâu nghỉ hoa đào ra động bích

Mà mong Lưu Nguyễn ghé vào thăm?

 

 

99.-Ẩn tu sng chết việc ưu tiên

Kinh cảm luân hồi trải khắp miền !

Sa đoạ ba đường như đại địa

Móng tay cát bụi cõi nhơn thiên !

 

 

100.-Ẩn tu tổng-yếu Tịnh môn mầu

Bí quyết đừng xa nghĩ ngợi cầu

Thanh tịnh chí thành trong mấy điểm

LỰC,HÀNH, NGUYỆN THIẾT với TIN sâu.

 

 

101.-Ẩn tu niệm niệm bút sanh hoa

Thi-tứ nguồn tâm một mạch ra

Danh-tự vị nguyên là Phật-nhãn

Non Tây rực rỡ dệt hồng hà.

 

 

102.-Ẩn tu trắc trắc, lại bình bình

Niệm đạt vô-tình lẫn hữu tình

Lầu tuyết rã tan ngàn thế giới

Chân trời pháp nhãn lộ bình-minh.

 

 

103.-Ẩn tu niệm vỡ chụp pha-lê

Muôn ổn ngàn yên lặng khắp bề !

Riêng một bóng Tăng ngồi tĩnh-tọa

Lâm-viên vừa bặt tiếng sơn khê.

 

 

104.-Ẩn tu sừng-sửng cội cây khô

Một ngón Thiên Long, dứt ý-đồ

Phật tử đến thăm như hỏi đạo

A Di Đà Phật lại NAM MÔ.

 

105.-Ẩn tu nhơn cảnh chợt đều quên

Sáng-rỡ vầng-nga rọi trước thềm

Mùi đạo Lan-thanh riêng tự biết

Kêu mưa đã vắng giọng cưu đêm.

 

 

106.-Ẩn tu suối lặng bóng chim qua

Chim nước đều như tự tại hoà

Di Lặc trao cho xem túi vải

Dưới trên đều rỗng, giọng kha kha !!!

 

 

107.-Ẩn tu bên viện tiếng chuông dồn!

Sấm nổ Oai âm tỉnh mộng hồn

Chồn nhảy vào hang Sư tử chúa

Sư-Vương lại dạo dã hồ thôn.

 

 

108.-Ẩn tu trì niệm tháng năm qua

Đạp lối Sen thanh trở lại NHÀ

Tin-tức ngày nay vừa thấy được

Tiếng chuông Sơn tự bóng trăng tà !

 



Nam mô Phương Liên Tịnh Xứ Mật - Tịnh đạo tràng

Hoà Thượng Thích Thiền Tâm

 




Chỉ duy TRÌ DANH mà chứng Thật Tướng,
Không cần quán tưởng cũng thấy Tây-Phương!
 

Ấn-Quang đại-sư



Mười Phương Thức Trì Danh

Hòa Thượng Thích Thiền Tâm


 

1.       Phản Văn Trì Danh

2.     Sổ Châu Trì Danh

3.     Tùy Tức Trì Danh

4.    Truy Đảnh Trì Danh

5.     Giác Chiếu Trì Danh

6.    Lễ Bái Trì Danh

7.     Ký Thập Trì Danh

8. Liên Hoa Trì Danh

9. Quang Trung Trì Danh

10. Quán Phật Trì Danh

 

Như đã nói, môn Trì Danh là pháp tu Tịnh Độ phổ thông nhứt hiện nay. Nhưng Trì Danh cũng được áp dụng với nhiều cách thức khác nhau tùy theo căn tánh của mỗi người, mà bút giả xin gạn lọc lại qua mấy phương pháp như sau:

 

1. Phản Văn Trì Danh: - Phương pháp này, miệng vừa niệm, tai vừa nghe vào trong, kiểm soát từng chữ từng câu cho rành rẽ rõ ràng hết câu này đến câu khác. Nghe có hai cách, hoặc dùng tai nghe, hoặc dùng tâm để nghe. Tuy nghe vào trong nhưng không trụ nơi đâu, lần lần quên hết trong ngoài, cho đến quên cả thân tâm cảnh giới, thời gian không gian, chỉ còn một câu Phật hiệu. Cách thức phản văn, khiến cho hành giả dễ gạn trừ vọng tưởng, mau được nhứt tâm. Kinh Lăng Nghiêm nói: 

"Chân giáo thể phương này, thanh tịnh do nghe tiếng. Muốn chứng vào Tam Muội, nên như thế tu hành"; chính là ý trên đây.

 

2. Sổ Châu Trì Danh: - Đây là cách thức miệng vừa niệm tay vừa lần chuỗi, ban đầu ý niệm còn ràng buộc nơi tràng hạt, sau lần buông bỏ đi đến cảnh nhứt tâm. Phương pháp sổ châu khiến cho niệm lực mạnh mẽ, ví như người yếu chân đi núi, nhờ nương cây gậy mà tiến bước lên cao mãi. Niệm cách này lại cần phải ghi số mỗi thời hoặc mỗi ngày là bao nhiêu câu. Ghi số có điểm lợi là bắt buộc người tu phải giữ định số, trừ được bịnh biếng trễ; nhưng cần chú ý đừng quá tham mau, tham nhiều mà niệm không được rành rẽ, rõ ràng. Người xưa tuy niệm nhiều nhưng cũng ở trong sự rành rõ, do nhờ hai điểm là: thuần thục và định tâm. Ngẫu Ích đại sư vị Tổ thứ chín của Liên Tông, từng khai thị: 

"Muốn đi đến cảnh giới nhất tâm bất loạnkhông có cách chi kỳ diệu khác. Trước tiên hành giả cần phải lần chuỗi ghi số, niệm niệm rành rẽ rõ ràng, mỗi ngày hoặc ba muôn, năm muôn, cho đến mười muôn câu, giữ khóa trình quyết định chẳng thiếu, thề một đời không thay đổi. Niệm như thế lâu ngày lần lần thuần thục, không niệm vẫn tự niệm, chừng ấy ghi số hay không ghi số cũng được. Và niệm như thế kèm thêm tín nguyện tha thiết, mà không được vãng sanh, thì chư Phật ba đời đều mang lỗi nói dối. Khi đã vãng sanh, tất cả pháp môn đều được hiện tiền. Nếu ban sơ vì cầu cao tự ỷ, muốn tỏ ra không trước tướng, muốn học theo lối viên dung tự tại, đó là tín nguyện chẳng bền sâu, hành trì không hết sức; dù có giảng suốt mười hai phần giáo, giải ngộ một ngàn bảy trăm công án, cũng là việc ở bên bờ sanh tử mà thôi."

Lời khuyên dạy này thật là cây kim chỉ nam cho người niệm Phật.

 

3. Tùy Tức Trì Danh: - Niệm Phật thầm hay niệm se sẽ tiếng, nương theo hơi thở, mỗi hơi thở ra vào đều một câu Phật hiệu; đó là ý nghĩa của Tùy Tức Trì Danh. Bởi mạng sống con người liên quan với hơi thở, nếu biết nương theo đây mà niệm, thì khi sống hằng không rời Phật, lúc lâm chung tất hơi vừa tắt, liền về cảnh giới Liên Bang. Nhưng nên chú ý là phương thức này khi tập đã thuần thục, cần niệm ra tiếng, chớ không nên chỉ niệm thầm. Như thế niệm lực mới mạnh, ý nguyện cầu sanh dễ được phát khởi. Bằng không, ý niệm vãng sanh sẽ khó tha thiết và sợ e lại lạc vào công dụng Ngũ Đình Tâm Quán của Tiểu Thừa.

 

4. Truy Đảnh Trì Danh: - Khi dùng cách này, nên niệm nho nhỏ tiếng, mỗi chữ mỗi câu đều kế tiếp nhau liên tỏa chặt chẽ, thành hình thế chữ sau đuổi theo chữ trước, câu nọ gối đầu câu kia nên gọi là Truy Đảnh. Áp dụng phương thức như thế, nhờ sự kín đáo bền chặt, trung gian không xen hở, nên tạp niệm không có chỗ len vào. Dùng đến pháp này, thì tình ý khẩn trương, tâm miệng dũng tiến, oai lực của chánh niệm bao trùm tất cả, khiến cho nghiệp tưởng vô minh tạm thời chìm lắng, ánh mầu Tam Muội bộc phát chiếu xa. Từ xưa người tu tịnh nghiệp trong lúc tình tưởng mênh mang rối loạn, thường dùng cách thức này.

 

5. Giác Chiếu Trì Danh- Niệm theo Giác Chiếu là một mặt niệm Phật, một mặt hồi quang soi trở lại chân tánh của mình. Do niệm như thế, hành giả sẽ đi vào cảnh giới hư linh siêu tuyệt, chỉ còn cảm giác thân tâm của mình cùng chân tâm Phật ngưng đọng thành một khối, sáng tròn rỡ rỡ, đầy rộng mênh mang. Khi đó phòng nhà vật dùng thảy đều ẩn mất, cho đến thân giả tứ đại của ta cũng không biết rơi lạc vào chỗ nào. Niệm theo đây thì báo thân chưa mãn đã chứng tịch quang, Phật hiệu vừa tuyên liền vào Tam Muội. Đem thân phàm phu mà dự vào cảnh thánh, thật không chi mau lẹ hơn phương pháp trên đây. Song chỉ tiếc, nếu chẳng phải bậc thượng thượng căn tất không thể lãnh hội thật hành, nên phần độ cơ của cách thức này vẫn còn sơ hẹp.

 

6. Lễ Bái Trì Danh: - Phương thức này là vừa lạy vừa niệm Phật. Hoặc niệm một câu lạy một lạy, hoặc một mặt niệm một mặt lạy, không luận câu Phật nhiều hay ít. Cách lễ Phật lại phải hết sức nhẹ nhàng chậm rãi, lễ niệm song hành, thân miệng hợp nhứt. Nếu thêm vào đó ý thành khẩn tha thiết, thì thành ra ba nghiệp đều tập trung, ngoài câu Phật hiệu không còn một tơ hào vọng niệm. Phương pháp này có sở năng phá trừ hôn trầm, công đức và hiệu lực rất to lớn, vì hành giả vận dụng cả ba nghiệp để trì niệm. Cư sĩ Vương Nhật Hưu khi xưa từng áp dụng cách trên đây, mỗi ngày đêm ông lễ niệm trung bình là một ngàn lạy. Nhưng dường như đây là lối niệm đặc biệt của hạng người tâm lực tinh tấn, thiếu khả năng ấy tất khó vững bền, bởi lạy lâu thân thể mỏi nhọc, dễ sanh chán nản. Cho nên thông thường, cách thức này chỉ hợp kiêm dụng, khó bề chuyên dụng.

 

7. Ký Thập Trì Danh: - Đây là cách niệm ký số, cứ lấy mỗi mười câu làm một đơn vị. Người hơi ngắn có thể niệm thành hai lượt, mỗi đoạn năm câu; hoặc chia ra ba lượt, hai đoạn ba câu một đoạn bốn câu. Sau khi niệm đủ mười câu, đều lần qua một hạt chuỗi. Niệm theo lối này, tâm đã niệm Phật, lại còn phải ghi nhớ số. Như thế dù không chuyên cũng bắt buộc phải chuyên, nếu không chuyên thì số mục liền sai lạc. Cho nên pháp này đại để là một phương tiện cưỡng bức cho hành giả chuyên tâm, rất có công hiệu với những kẻ nhiều tạp niệm. Ấn Quang đại sư thường khuyên các liên hữu áp dụng cách thức trên đây.

 

8. Liên Hoa Trì Danh- Lấy bốn sắc hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng, vừa niệm vừa tưởng, luân lưu chuyển tiếp, là danh nghĩa của lối niệm trên đây. Hành giả khi niệm câu Phật hiệu thứ nhứt, tưởng trước mặt mình hiện ra một đóa sen xanh to lớn phóng ánh sáng xanh. Câu thứ hai, tưởng hoa sen vàng phóng ánh sáng vàng. Cho đến câu thứ ba thứ tư, là hoa sen đỏ, trắng, màu nào phóng ánh sáng ấy. Kế tiếp tục tưởng lại hoa sen màu xanh, cứ như thế luân lưu mãi. Đồng thời khi hoa hiện, lại tưởng có hương sen thanh nhẹ phưởng phất xung quanh. Bởi có nhiều hành giả trong Liên Hoa Tông dùng mọi pháp thức vẫn khó ngăn được tạp niệm, nên cổ nhơn mới phát minh ra lối niệm này. Đây là cách dùng hình sắc thay đổi để buộc tâm tưởng cho chuyên nhất, và hình sắc này lại lấy tướng hoa sen nơi ao thất bảo ở cõi Cực Lạc "Một câu Di Đà, một đóa bảo liên", bởi hoa sen Tịnh Độ hiện thành không rời hoa sen công đức của tâm niệm Phật. Và khi mạng chung, thần thức của hành giả sẽ nương hoa sen báu ấy mà sanh về Cực Lạc. Chư liên hữu nếu thấy có duyên với phương thức trên đây, nên áp dụng để mau đi vào Niệm Phật Diệu Liên Hoa Tam Muội.

 

9. Quang Trung Trì Danh: - Vì có hành giả khi nhắm mắt niệm Phật, thường bất chợt thấy những hình tướng ô uế, hoặc màu sắc đen tối xao động nổi lên, nên cổ đức mới truyền dạy cho cách thức này. Đây phương pháp vừa niệm Phật, vừa tưởng mình đang ngồi giữa vùng ánh sáng trong suốt to rộng. Khi tâm đã an định trong vùng quang minh ấy, hành giả cảm thấy thần trí sáng suốt mát mẻ, không những tạp tưởng trừ dứt, mà các tướng uế ác cũng tiêu tan. Rồi chánh niệm do đó được bền lâu, và Tam Muội cũng do đó lần lần thành tựu. Đây tuy là phương tiện đặc biệt chuyên trừ tướng uế ác nhưng dù không có nghiệp bịnh ấy, nếu muốn tinh thần thơ thới để đi sâu vào Niệm Phật Tam Muội, hành giả cũng nên áp dụng cách thức này.


10. Quán Phật Trì Danh- Pháp quán tưởng trong Quán Kinh rất trọng yếu, công đức cực to rộng, nhưng chưa phải là phương tiện phổ thông cho chúng sanh thời mạt pháp hành trì. Nhưng vì không muốn bỏ công đức đặc biệt của quán pháp, nên cổ nhơn đã thể dụng trong mười sáu phép quán, lựa cách thức dễ tu tập nhứt, lấy trì danh làm chánh, quán Phật làm phụ, gọi là Quán Phật Trì Danh. Hành giả mỗi ngày sau khi niệm Phật, lại để riêng một thời tịnh tâm quán tưởng sắc tướng quanh minh của Phật A Di Đà. Cách quán Phật này rút lựa phép quán thứ mười ba trong Quán Kinh, tưởng đức A Di Đà thân cao một trượng sáu, sắc vàng ròng, đứng bên bờ ao thất bảo. Nếu chưa quán tưởng được ao thất bảo, hành giả có thể tưởng đức Phật đứng trong vùng ánh sáng giữa hư không trước mắt mình, tay trái đưa ngang ngực bắt ấn kiết tường, tay mặt buông sè xuống theo thế tiếp dẫn. Muốn quán Phật cho thành tựu, trước tiên nên quán đại khái toàn thân, kế chỉ chuyên tâm quán tướng lông trắng giữa đôi mày. Tướng bạch hào này rỗng không trong suốt như bạch ngọc, có tám cạnh, xoay về bên hữu cao thành năm vòng. Bạch hào là tướng căn bản trong ba mươi hai tướng, khi tướng này quán thành, do sự cơ cảm, các tướng kia đều lần lượt hiện rõ. Tuy nhiên, muốn được phần chắc chắn hành giả cũng nên duyệt xem trong kinh, để ghi nhớ rõ ba mươi hai tướng tốt của Phật trước khi dụng công. Phương pháp trên đây sở dĩ để Trì Danh vào phần chánh, vì nếu quán tưởng không thành vẫn còn phần Trì Danh để bảo đảm cho sự vãng sanh. Nhưng thật ra, Trì Danh cũng giúp quán tưởng, quán tưởng lại phụ dực cho Trì Danh, hai phần này hỗ tương đưa hành giả đến chỗ song song thành tựu. Pháp thức này tuy có phần khó hơn các lối trên, song nếu thành tựu thì công đức to rộng vô biên, nên xin đưa ra sau cùng để làm duyên khuyến tấn.

 

Như trên đã lược trình mười lối Trì Danh, cũng là mười phương pháp cốt yếu để đối trị tâm bịnh của người niệm Phật. Trong các sách Tịnh Độ, có đưa ra đến mấy mươi cách như: Cao Thanh Trì Danh, Đê Thanh Trì Danh, Mang Trung Trì Danh, Nhàn Trung Trì Danh, v.v... nhưng đó chỉ là những lối niệm cao tiếng, thấp tiếng, khi gấp, khi huỡn, chưa có thể gọi là một phương pháp niệm Phật. Vì thế, bút giả đã chọn lọc lại rút ra mười cách thức căn bản, khả dĩ gọi là "phương pháp", để đối trị mối chướng hôn trầm tán loạn, và có thể thông dụng cho một phần lớn căn tánh hiện thời. 


Trong mười pháp thức trên, các liên hữu có thể thí nghiệm qua, và sau cùng áp dụng một lối niệm nào mà mình thích hợp nhứt...

 

Sự nhứt tâm là thế nào?

 

- Khi hành giả chuyên tâm chú ý trên sáu chữ hồng danh, lâu ngày tất cả tạp niệm đều dứt bặt, lúc nằm ngồi đi đứng duy có một câu Phật hiệu hiện tiền, gọi là cảnh giới Sự nhứt tâm. Đây là định cảnh của người tu Tịnh Độ, cũng ngang hàng với sự nhập định của bậc tu Thiền.

 

Lý nhứt tâm là thế nào?

 

- Trên Sự nhứt tâm nếu tiến thêm một bước, dụng công đến chỗ chí cực, ngày kia tâm địa rỗng suốt, thoát hẳn căn trần ngộ vào thật tướng. Khi ấy hiện tại tức là Tây Phương mà chẳng ngại gì riêng có cõi Cực Lạc, tánh mình chính là Di Đà cũng chẳng ngại gì riêng có đức A Di Đà. Đây là cảnh giới Lý nhứt tâm. Địa vị này là cảnh "định huệ nhứt như" của người niệm Phật, ngang hàng với trình độ khai ngộ bên Thiền Tông.

 

Với thuyết Sự, Lý nhứt tâm,

Ngẫu Ích đại sư đã giản biệt tường tận.

 

Ngài bảo: "Không luận sự trì hay lý trì; niệm đến hàng phục phiền não, kiến hoặc tư hoặc không khởi hiện, là cảnh giới Sự nhứt tâm. Không luận sự trì hay lý trì, niệm đến tâm khai, thấy rõ bản tánh Phật, là cảnh giới Lý nhứt tâm. Sự nhứt tâm không bị kiến, tư hoặc làm loạn. Lý nhứt tâm không bị nhị biên làm loạn" (Nhị biên: có, không - đoạn, thường v.v...)

Như thế chẳng nói chi Lý nhứt tâm, với Sự nhứt tâm người đời nay cũng chẳng dễ gì đi đến. Tuy nhiên, với công đức của câu niệm Phật cộng thêm sự chí thiết hành trì, trong mỗi niệm sẽ diệt được một phần vô minh thêm một phần phước huệ, lần lần tất sẽ đi đến cảnh giới tốt. Và hành trì lâu ngày như thế, lo gì không tiến đến chỗ mỗi niệm khai ngộ, được hảo cảnh gọi là "Nhứt phiên đề khởi nhứt phiên tân" (Một phen đề khởi niệm, một phen lộ bày cảnh mới).

 

Cho nên, dù là căn tánh thời mạt, nếu thiết thật dụng công, trình-độ Sự, Lý-nhứt-tâm đối với chúng ta chẳng phải tuyệt phần hy vọng?


NAM-MÔ A-DI-ÐÀ PHẬT


Mỗi câu tràng hạt (THỦ NHÃN) Phật là tâm

Phật rõ là tâm, uổng chạy tìm!

Bể Phật dung hòa tâm với cảnh

Trời tâm bình đẳng Phật cùng sanh

 

Bỏ tâm theo Phật còn mơ mộng

Chấp Phật là tâm chẳng trọn lành.

Tâm, Phật nguyên lai đều giả huyễn

Phật, tâm đồng diệt đến viên thành.

 

(NIỆM PHẬT THẬP YẾU (Sự Trì, Lý Trì) - HT. THÍCH THIỀN-TÂM) 



Tuy nhiên, nếu chưa đạt được trình độ SỰ, LÝ-NHỨT-TÂM, thì người tu TỊNH-ĐỘ HẰNG NGÀY PHẢI TÌM CÁCH PHÁ TRỪ: 3 ĐIỀU NGHI, 4 CỬA ẢI, để không bị chướng ngại cho sự vãng-sanh của QÚY-VỊ.

Từ-Chiếu đại-sư nói: "Người tu Tịnh-độ khi lâm chung thường có ba điều nghi, bốn cửa ải, hay làm chướng ngại cho sự vãng-sanh, phải dự bị suy nghĩ trước để phá trừ.


Ba điều nghi là:

1.- Nghi mình túc-nghiệp sâu nặng, thời gian công phu tu hành ít, e không được   
     vãng-sanh.

2.- Nghi mình bản nguyện chưa trả xong, tham sân si chưa dứt, e không được  
     vãng-sanh.

3- Nghi mình niệm Phật, Phật không đến rước, e không được vãng-sanh.


Bốn cửa ải là:

1.- Hoặc nhân bị bịnh khổ mà trở lại hủy báng Phật không linh.

2.- Hoặc nhân tham sống mà giết vật mạng cúng tế.

3.- Hoặc nhân uống thuốc mà dùng rượu cùng chất máu tanh hôi.

4.- Hoặc nhân ái luyến mà tự ràng buộc với gia đình.



Nếu phá trừ được “TAM NGHI, TỨ QUAN”, thì chắc chắn chúng ta sẽ được “ĐỚI NGHIỆP VÃNG-SANH”, còn được ĐỊA VỊ CAO THẤP, LÀ DO CÔNG PHU TRÌ CHÚ hoặc NIỆM PHẬT có sâu cạn khác nhau.


Tam Nghi Tứ Quan



Từ-Chiếu đại-sư nêu ra thuyết “Tam Nghi Tứ Quan” ở trên, bậc trí huệ có thể suy nghĩ tìm phương pháp giải quyết.

Nay bút giả (HT. THÍCH THIỀN-TÂM) xin mạn phép nói lược qua cách phá trừ để góp ý, và các bạn đồng tu với sự hiểu biết của mình, có thể suy diễn hiểu rộng thêm ra.

1.- Phá mối nghi túc nghiệp nặng, công tu ít:

-Phật A Di Đà từng có lời thệ nguyện: "Chúng sanh nào chí tâm muốn về Cực Lạc, niệm danh hiệu Ngài cho đến mười niệm, nếu không được vãng sanh, Ngài thề không thành Phật."

Phật không khi nào nói dối, vậy hành giả phải tin nơi đức Từ Tôn. Mười niệm là thời gian công phu tu hành rất ít mà còn được vãng sanh, huống chi ta niệm nhiều hơn số đó.

Lại dù kẻ nghiệp nặng đến đâu, như phạm trai phá giới, tạo đủ nghiệp ác, nếu chí tâm sám hối nương về Phật A Di Đà, Ngài đều tiếp dẫn.

Kinh Quán Vô Lượng Thọ đã chẳng nói kẻ tạo tội nặng ngũ nghịch thập ác, khi lâm chung chí tâm niệm mười niệm đều được vãng sanh đó ư?

Trong truyện Vãng Sanh, như Trương Thiện Hòa, Hùng Tuấn, Duy Cung, trọn đời giết trâu bò, phá giới, làm ác, khi lâm chung tướng địa ngục hiện, sợ hãi niệm Phật, liền thấy Phật đến rước. Cho đến loài chim sáo, két niệm Phật , còn được vãng sanh, huống chi ta chưa phải là tệ đến mức đó?

2.- Phá mối nghi bản nguyện chưa trả, tham sân si chưa dứt:

- Bản nguyện của hành giả đại khái có hai: đạo và đời.

Về đạo, có người nguyện cất chùa bố thí hay nguyện tụng số kinh chú bao nhiêu, làm chưa tròn đã đến giờ chết. Phải nghĩ rằng: chỉ tín tâm niệm Phật, khi được vãng sanh sẽ làm vô lượng vô biên công đức, còn bản nguyện chỉ là việc nhỏ, làm xong hay chưa không mấy quan hệ, và chẳng có hại chi cả.

Về đời, hoặc có người vì nhiệm vụ gia đình chưa tròn, như cha mẹ suy già không ai săn sóc, vợ con thơ dại thiếu chỗ tựa nương, hoặc có kẻ thiếu nợ người chưa kịp trả, tâm nguyện chưa vẹn nên lòng chẳng yên. Phải nghĩ rằng: lúc ta sắp chết, dù có lo hay không cũng chẳng làm sao được. Chi bằng chuyên tâm niệm Phật, khi đã được vãng sanh Tây Phương chứng đạo quả, thì tất cả bản nguyện trái duyên đều có thể trả xong, tất cả kẻ oán người thân đều có thể cứu độ.

Lại Kinh Na Tiên nói: "Ví như hột cát nhẹ, bỏ xuống nước liền chìm. Trái lại tảng đá dù nặng to, nếu được thuyền chở, có thể đem từ chỗ này sang chỗ khác.

Người niệm Phật cũng thế, nghiệp tuy nhẹ nếu không được Phật cứu độ, tất bị luân hồi, tội chướng dù nặng bao nhiêu, được Phật tiếp dẫn sẽ sanh về Cực Lạc."

Theo đoạn kinh đây, ta thấy môn Niệm Phật là pháp có thể đới nghiệp vãng sanhvì nhờ tha lực. Tảng đá lớn ví cho sức nghiệp nặng to, thuyền chở ví cho nguyện lực của Phật. Vậy người tu đừng nghĩ rằng mình còn tham, sân, si, e không được vãng sanh. Thí dụ trên có thể phá luôn điểm nghi về nghiệp nặng ở điều thứ nhứt.

3. Phá mối nghi niệm Phật, e Phật không đến rước:

- Người niệm Phật tùy theo công đức mình, khi lâm chung thấy Phật, hoặc Bồ Tát, hay Thánh chúng đến rước. Có khi không thấy chi, mà nhờ sức nguyện của mình và Phật lực thầm nhiếp thọ, thần thức tự bay về Tây Phương.

Đây là bởi công hạnh của mình có cao thấp, sâu cạn. Chỉ cần yếu lúc ấy ta phải chí tâm niệm Phật, đừng nghĩ chi sai khác. Nếu nghi ngờ sẽ tự sanh ra chướng ngại.

Tóm lại, khi lâm chung dù thấy tướng tốt hay không cũng đừng quản đến, chỉ hết lòng niệm Phật cho đến giây phút cuối cùng mà thôi.

* Phá chung bốn cửa ải:

1.- Nhân bịnh khổ hủy báng Phật
2.- Tham sống sát sanh cúng tế
3.- Cầu lành bịnh uống ruợu, hoặc dùng thuốc có chất huyết tanh
4.- Vì ái luyến nên tâm niệm ràng buộc với gia đình.

Người niệm Phật mà bị tai nạn bịnh khổ, đó là do nhờ công đức tu hành, nên chuyển quả nặng thành quả nhẹ, chuyển hậu báo thành hiện báo, trả cho hết để được sanh về Tây Phương. Nếu trở lại nghi ngờ hủy báng, là người kém tin hiểu, phụ ơn Phật, tự gây tội chướng cho mình. 

Trong sự tích Tịnh Độ có thuật chuyện ông Ngô Mao cùng rất nhiều Phật tử khác, nhờ dồn nghiệp mà sớm được vãng sanh. Vậy khi gặp cảnh này, người niệm Phật nên ý thức để hiểu rõ.

Lời bàn: 

Người tu NIỆM PHẬT hoặc TRÌ CHÚ thì mỗi ngày nghiệp chướng tiêu trừ, THIỆN CĂN TĂNG TRƯỞNG, ĐỊNH-LỰC KIÊN CỐ, NÊN TẤT CẢ NGHIỆP CHƯỚNG TRONG QUÁ KHỨ KHÔNG CÓ NHÂN DUYÊN PHÁT SANH, CŨNG NHƯ TRIỆU THỐ THEO NGỘ ĐẠT QUỐC SƯ 10 ĐỜI để đồi mạng MÀ KHÔNG LÀM GÌ ĐƯỢC như trong KINH THỦY SÁM đã nói, lại có thể chuyển TAI NẠN BỊNH KHỔ nặng thành nhẹ, nhẹ thành không. Dù chưa trả hết nghiệp, vẫn được vãng-sanh. Cho nên, trong KINH gọi là “ĐỚI NGHIỆP VÃNG-SANH” LÀ LÝ DO NẦY VẬY.

Khi được vãng-sanh, thì QÚY-VỊ có thể dùng ỨNG THÂN, hoặc HÓA THÂN ĐỂ ĐỘ TẤT CẢ TẤT KẼ OÁN NGƯỜI THÂN Ở KHẮP 10 PHƯƠNG ĐỀU THÀNH PHẬT ĐẠO.

Lại thân này giả tạm, tùy theo tội nghiệp mà kiếp sống có vui khổ lâu mau. Nếu giết sanh mạng để nuôi dưỡng sanh mạng, hoặc cúng tế, thì tội khổ càng thêm nặng, phải triệt để nương theo Phật và tin chắc lý nhân quả.

Khi đau yếu chỉ cầu Phật, không nên cầu phù phép tà sư, hoặc nghe lời kẻ chưa hiểu đạo, trở lại ăn mặn, uống rượu, hay dùng thuốc bằng chất máu huyết tanh hôi. Thân này nhơ nhớp, được về cõi Phật sớm chừng nào hay chừng ấy, như bỏ chiếc áo hôi rách mặc sắc phục đẹp thơm, đáng chi phải bận lòng?

Đến như mối hại về ái luyến khi lâm chung, thì như đoạn trên đã nói. Phải nghĩ: trong gia đình từ cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái, đều do đời trước có nợ nần ân oán, nên mới tạm hội ngộ nhau. Khi nhân duyên đã hết thì mỗi người đi mỗi ngả. Nếu có lòng thương, tốt hơn ta nên gát bỏ tình trần cầu sanh Tây Phương, để độ tất cả kẻ oan thân

Khi cái chết sắp đến, dù có quyến luyến cũng không thể đem theo, không làm chi được, bởi chính sắc thân của ta còn phải tan về cát bụi. Nếu ái luyến thì đã không được vãng sanh, lại bị khổ luân hồi vô cùng vô tận.

Những điểm về Tam Nghi Tứ Quan trên đây, hành giả phải suy nghiệm ghi nhớ kỹ, để dự bị trước cho tinh thần được yên ổn trong lúc lâm chung.

 

A.      KÝ SỐ NIỆM PHẬT


…ghi nhớ từ MỘT đến MƯỜI câu ( là câu thứ 1 thì ghi nhớ số 1 …câu thứ 10 thì ghi nhớ số 10 ) .Vì còn sự "ghi nhớ số" ấy [1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10], nên gọi là KÝ-SỐ.

 

(Chứ không phải NAM-MÔ A-DI-ÐÀ PHẬT  một,… NAM-MÔ A-DI-ÐÀ PHẬT  mười).

 

B.       CHỨNG SỐ NIỆM PHẬT


       Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
Tâm tiếng hiệp khắn nhau                         (Hạ Thủ Công Phu)
Thường niệm cho rành rõ


C.      CHỈ QUÁN NIỆM PHẬT


       Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ                          (Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)


D.     TỊCH TĨNH NIỆM PHẬT

      

        Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
Nhất tâm Phật hiện tiền                            (Sự Nhất Tâm)
Tam-muội sự thành tựu


Đương niệm tức vô niệm                            (Lý nhất Tâm)
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
Chứng lý pháp thân hiện


   HÒA THƯỢNG THÍCH THIỀN-TÂM


PHÁT NGUYỆN 1 ĐỜI VÃNG-SANH
BẤT-THOÁI-CHUYỂN LÀM TÔNG


( tức là PHÁT BỒ-ĐỀ-TÂM của HÒA THƯỢNG THÍCH THIỀN-TÂM  )



Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-DI.


   

       Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
Cầu đài sen thượng phẩm                          
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)




 Kệ Niệm Phật


(Hòa Thượng Thích Trí Tịnh soạn)

Comments

Popular posts from this blog