KINH
PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG
ĐÀ RA NI
PHẦN LƯU THÔNG
Thiên Đế và đại chúng vui mừng đảnh
lễ, tín thọ phụng hành.
CHUNG
PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG ĐÀ RA NI
Nam-mô ba ga pha tê. Sạt hoa tát răn, lô ky da. Bơ ra di, vi ti sắc tra da.
Bút đà da, ba ga pha tê. Tát đi da tha !
Um ! Bút rum, bút rum,
bút rum. Suýt đà da, Suýt đà da. Vi suýt đà da, vi suýt đà da. Á sá ma, sá ma.
Sa măn tá, phạ hoa sát. Sa phả ra na, ga ti, ga gạ na. Soa phạ hoa, vi suýt đi.
Á vi chuân da, du măn. Sạt hoa tát thá ga đá. Sú ga da. Phạ ra, phạ ca nã. A mi
rị tá, bi sá cu. Ma ha muýt đơ ra, măn đa ra, ba na.
Um ! Á hạ ra, á hạ ra.
A du săn, đà ra ni. Suýt đà đa, suýt đà đa. Ga ga na, xoa phạ hoa, vi suýt đi.
U sắc ni sá, vi ca da, vi suýt đi. Sá hạ sa ra, ra sa mi, săn tô ni tê. Sá ra
hoa, tát thá ga đa. A hoa lô ki ni. Sạt hoa tát thá ga đa, mát tê. Sá tra, bá
ra mi tá. Ba rị, bủ ra ni. Na sá, bủ mi bơ ra, đi sắc si tê. Sá ra hoa, tát thá
ga đa, hất rị đà da. Đi sắc sá na. Đi sắc si tê.
Um ! Muýt đơ ri, muýt
đơ ri, ma ha muýt đơ ri. Hoa di ra, ca da. Săn hạ đa nã, vi suýt đi. Sá ra hoa,
ca ma, phạ ra na, vi suýt đi. Ba ra, đu ri ca ti, bi ri, vi suýt đi. Bơ ra ti
na, hoa ra đá da, a dục suýt đi. Sa ma dã, đi sắc sá na, đi sắc si tê.
Um ! Ma ni, ma ni, mạ
hạ ma ni. Á ma ni, á ma ni. Vĩ ma ni, vĩ ma ni, mạ hạ vĩ ma ni. Mát đi, mát đi,
mạ hạ mát đi. Tát thá đá, bủ đa. Cu thi, vi ri suýt đi. Vĩ sa phổ ra, bút đi,
vi suýt đi.
Um ! Hi hi. Dá ra, dá
ra. Vĩ dá ra, vĩ dá ra. Sa ma ra, sa ma ra. Sa phạ ra, sa phạ ra. Sá ra phạ,
bút đa. Đi sắc sá na. Đi sắc si tê. Suýt đi, suýt đi. Họa di ri, họa di ri, mạ
hạ họa di ri. Á họa di ri. Họa di ra, gạ bi. Dá ra, gạ bi. Vĩ da ra, gạ bi. Họa
di ra, rít họa lã, gạ bi. Họa di rô, na ga tê. Họa di rô, na bà vê. Họa di ra,
sam bà vê. Họa di rô, họa di rị na. Họa di rảm, hoa phạ, đô mạ mạ. Sá rị rảm,
sá ra phạ, sát ta phạ năng. Tả ca da, bi ri, vi suýt đi. Sất da, hoa phạ, đô
mi, sát na. Sá ra phạ, ga ti, bi rị suýt đi. Sá ra phạ, tát thá ga đa, sất da
mi. Sá ma, sa phạ, sát dăn tu. Sạt hoa, tát thá ga đa. Sá ma, sá phạ sa, đi sắc
si tê.
Um ! Sất đi da, sất đi
da. Bút đi da, bút đi da. Vi bút đi da, vi bút đi da. Bồ đà da, bồ đà da. Vi bồ
đà da, vi bồ đà da. Mô ca da, mô ca da. Vi mô ca da, vi mô ca da. Suýt đà da,
suýt đà đa. Vi suýt đà da, vi suýt đà da. Sa măn tá, tát bi ri, mô ca da. Sa
măn đá đa, sa mi, bi ri suýt đi. Sá ra phạ, tát thá ga đá, sam ma da, hất rị đà
da. Đi sắc sá na, đi sắc si tê.
Um ! Muýt đơ ri, muýt
đơ ri, mạ hạ muýt đơ ra. Mạn đà ra, bá na. Đi sắc si tê. Sóa ha .
LIÊN TỤC TRONG VÒNG 7 NGÀY
, ĐỂ TRỪ TẤT CẢ "KHẨU NGHIỆP" ĐỐI VỚI
"CHA MẸ", CHƯ TĂNG...LẠI CŨNG ĐỐNG CỬA TẤT CẢ "ÁC
ĐẠO", MỞ ĐƯỜNG NHƠN, THIÊN, NIẾT BÀN CHO NHỨT THIẾT CHÚNG
SANH.
LÀM ĐƯỢC NHƯ VẬY, THÌ CÓ
THỂ "TRUYỀN BÁ LƯU
THÔNG" BỘ KINH NẦY KHẮP PHÁP GIỚI CHÚNG SANH.
LỜI SAU
CÙNG
Môn Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni, đời Đường có
quan thị ngự sử Võ Triệt thường trì tụng, sau nghe bạn đồng liêu là
Tưởng Hình cũng thọ trì, nhưng văn cú và ngôn âm phần lớn đều
sai khác; hỏi ra quan Thị Ngự Sử Tưởng Hình thọ học với ông Vương Khai Sĩ,
và Vương Khai Sĩ lại được ngài Kim Cang Trí Tam Tạng truyền
pháp. Trong khi truyền thọ ngài bảo:
"- Ở Tây Vức cũng ít có bản này. Ta đem
theo Phạn bản đến đây, nên mật truyền lại cho ông".
Trong niên hiệu Khai Nguyên, có vị cư sĩ tinh tu ở
non Ngũ Đài, người thường gọi là Vương Sơn Nhơn, cũng trì tụng
chú này. Sau vì cầu siêu cho cha, ông tụng chú đến vài mươi muôn
biến, cầu xin được biết nghiệp báo lành dữ và chỗ sanh
của phụ thân. Nhưng kết cuộc không thấy chi, ông thối
tâm muốn ra khỏi núi. Bỗng gặp một lão nhơn đón lại, bảo:
"Hiền giả tụng trì thật là cần mẫn, nhưng
vì cách Phật lâu xa, văn cú thất lạc, thiếu sót nhiều. Nên
không mau được ứng nghiệm. Nay gặp nhau đây, tôi xin truyền lại toàn
bản của thần chú".
Vương Sơn Nhơn mời về đảnh lễ và thọ pháp. Lão
nhơn dạy:
"Hiền giả tụng chú bản này độ một ngàn biến sẽ
thấy hiệu lực!".
Cư sĩ trì niệm y theo lời. Vài hôm sau lúc ban
đêm, bỗng nghe tiếng ngọc hoàn bội khua thanh thao, giọng tiêu cầm
dìu dặt, lần lần giáng xuống trước sân nhà, cư sĩ kinh lạ bước
ra xem, thấy mấy mươi thiên nhơn vây quanh ủng hộ một
vị thiên tiên tướng mạo siêu phàm đi đến. Vị thiên
tiên hỏi:
"-Người biết ta chăng?"
Cư sĩ thưa:
"-Kẻ dung phàm này mới được hân hạnh diện
kiến!".
Thiên tiên nói:
"-Ta là phụ thân của người, năm rồi người trì
tụng Tôn Thắng đà ra ni, ta được nhờ phước lực sanh
lên cõi trời. Mấy hôm nay, y phước lại tăng gấp bội hơn trước, ta được làm
vua trong hàng thiên tiên. Bản chú ngươi vừa trì tụng công
hiệu thật không thể nghĩ bàn!"
Nói xong, tất cả đồng bay về thượng giới, cư
sĩ vui mừng, cúi lạy tiễn đưa. Từ đó về sau càng thêm tinh tấn.
Cũng vào thời đó, tại Đông Đô có ông Vương Thiếu Phủ tụng
chú Tôn Thắng theo bản của ngài Phật Đà Ba Lỵ đã vài muôn
biến, một đêm, ông mộng thấy vị Phạn tăng đi đến bảo: "Nhơn
giả tụng niệm rất tinh thành, nhưng tiếc vì chú văn còn thiếu,
nên công hiệu kém!"
Thiếu Phủ đảnh lễ cầu thỉnh bản chú văn đầy
đủ. Phạm tăng từ bi chấp thuận, khẩu truyền từng
câu chân ngôn. Sau khi đã thông thuộc tất cả, ông bái tạ đưa
vị Phạm tăng ra khỏi cửa, nhìn qua trời sáng như ban ngày. Thiếu Phủ
trở vào nhà thấy tôi tớ còn đang nằm ngủ.
Vừa lúc ông chợt tỉnh giấc, vội gọi kẻ đồng bộc
trách bảo trời đã sáng sao chưa thức dậy?
Chúng đáp rằng mới vừa nửa đêm. Lúc ấy ánh sáng bỗng
tắt, trở lại đêm tối như cũ. Thiếu Phủ nhớ cơn thần mộng, lấy làm lạ,
nhắm mắt tụng thần chú mấy biến thấy vẫn thông suốt. Từ đó,
ông y theo khẩu truyền của vị Phạm tăng mà thọ
trì.
Trong niên hiệu Thiên Bảo năm đầu, Thiếu Phủ đang nằm nơi tư thất, chợt tắt
hơi. Vì nơi ngực còn ấm, người nhà không dám tẫn liệm. Đến 7 hôm sau, ông
bỗng sống lại. Lúc ấy, kẻ háo sự trong thành bảo nhau đến hỏi
về duyên cớ tái sanh. Tiếng đồn lan ra, Vưong Khai
Sĩ và Vương Sơn Nhơn lúc ấy ở Đông Đô không quen
biết nhau, cũng đồng đến thăm viếng. Trước mặt các quan
khách, Vương Thiếu Phủ trần thuật như sau:
“- Tôi vừa nằm nghỉ, chợt hôn mê, thấy có 2 sứ giả đến dẫn đem
đi. Được vài mươi dặm, đến một gốc đại thọ, 2 sứ giả dùng lại
tạm nghỉ, tôi cũng ngồi xuống theo. Bỗng nhớ tới chú Tôn Thắng, tôi liền
nhắm mắt tụng luôn 21 biến. Lúc mở mắt nhìn quanh, không thấy
2 sứ giả đâu cả.
Giây lát, có 4 vị khác đi đến quỳ thưa rằng: "Không biết
ngài tu theo diệu pháp nào, khiến cho 2 sứ giả dẫn độ đều
được sanh lên cõi trời?" Tôi đáp: "Tệ nhơn chỉ tụng Phật
Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni".
Bốn vị ấy cầu thỉnh:
"Xin ngài vì chúng đệ tử tụng trì, cứu vớt cho
khỏi vòng khổ nạn!" Tôi cũng nhắm mắt tụng 21 biến, lúc mở
mắt ra, lại không thấy bốn vị đó.
Khoảnh khắc giữa hư không, có tiếng binh đao, một vị thần mặc
tử bào, mang giáp trụ, quân thị vệ đông đảo, đến trước quỳ thưa rằng:
"Tôi là thần Ngũ Đạo Minh Ty, địa vị tuy tôn quý,
nhưng vẫn còn nhiếp về thần đạo. Sáu vị kia nhờ pháp
lực của ngài, đều được sanh lên cõi trời.
Xin mời ngài hạ cố đến tệ cư trì tụng, khiến cho đệ
tử và chúng sanh nơi đó được nhờ phước ấm, đồng sanh lên thiên
giới".
Theo vị thần, tôi đi đến một khu thành quách to rộng,
chu vi ước độ vài mươi dặm. Trong thành có rất đông tội nhơn, mang
gông xiềng họp lại nơi sân rộng trước cung điện, có lẽ đang chờ khảo
tra xử phạt. Vị thần dạy quân bày tòa cao đẹp, làm lễ thỉnh tôi lên ngồi,
còn chính mình quỳ nơi trước, phía dưới, chắp tay lắng nghe.
Tôi liền định tâm chí thành tụng đủ 49 biến,
khi mở mắt ra nhìn bốn bề không thấy một ai cả, chỉ có gông xiềng đứt
nát nằm ngổn ngang chung quanh. Còn đang kinh ngạc, bỗng có
4 sứ giả đến bảo tôi rằng:
"Đức vua dạy mời ông đi nơi khác, vì ông đã
làm rối loạn, phá hư trật tự chốn minh ty của
chúng tôi". Kế đó họ đưa tôi vào một hang núi, và tôi được hoàn
hồn sống lại.
Sự tái sanh này chắc cũng nhờ oai lực không thể nghĩ
bàn của Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni.”
Vương khai Sĩ và Vương Sơn Nhơn nghe nói, mỗi người đều đọc bản chú
của mình để so sánh với bản chú của Vương Thiếu Phủ thì thấy đồng
nhau như một bản. Cả ba đều vui mừng, cùng nhau khánh hạ. Vương sơn Nhơn
nói:
"Bản của tôi thọ giáo nơi vị thánh công nơi non
Ngũ Đài".
Vương Thiếu Phủ bảo:
"Tôi thọ học bản chú này với vị thần tăng".
Vương Khai Sĩ nói:
"Còn bản của tôi được thọ truyền bởi ngài Kim Cang
Trí Tam Tạng, hiện Phạm văn bối diệp hiện còn lưu trữ".
Ai nấy nghe nói đều kinh ngạc, khen là
chuyện hy hữu.
Ngoài ra lại còn chuyện ông Trương Diệc trì chú Tôn
Thắng cứu được cha mẹ khỏi khổ địa ngục, sanh lên cõi
trời. Chuyện ông Trương Thừa Phước trì chú này khi bị minh
ty đến bắt, đã không thọ khổ mà còn cứu vớt được tội nhơn ở cõi âm được siêu
thoát. Truyện vài vị tăng trì chú Tôn Thắng cảm được xá
lợi hiện và rất nhiều cảnh giới lành.
Những chuyện trên đây có ghi chép trong tập Gia Cú Linh
Nghiệm Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni Ký. Sau tập này có chép bản
văn đầy đủ của chú ấy, gọi là Cụ Túc Bản. Bút giả y theo Cụ
Túc Bản so sánh với phiên âm của các bản khác, và tra
cứu từ điển để dịch ra Việt ngữ cho đúng với Phạm âm.
Riêng bản dịch của Pháp-Thiên Tam-Tạng nhan
đề: Tối-Thắng
Phật-Đảnh Đà-Ra-Ni so với Cụ túc Bản văn
cú đã đồng lại có phần rộng hơn. Sau khi hiệu kiểm, bút giả lại ghi thêm
vào những văn cú mà Cụ-túc-bản không có để được càng đầy
đủ.
Mong rằng việc làm này, đem nhiều lợi ích cho người trì tụng.
Comments
Post a Comment