PHẬT THUYẾT KINH A-DI-ĐÀ

 

 

Dao Tần, Tam-Tạng Pháp-Sư Cưu-Ma-La Thập dịch

Việt Dịch : HT.Trí-Tịnh

 

PHẦN CHÁNH-TÔNG

 

 1


Nói về  “Y-BÁO TRANG-NGHIÊM” và “CHÁNH-BÁO VÔ-LƯỢNG THÙ-THẮNG”, để cho chúng-sanh “TÍN” rằng đây là cõi nước “CÓ THẬT”, cũng như cõi “TA-BÀ” của chúng ta đang sống vậy.

 

 

Y-BÁO TRANG-NGHIÊM

 

Xá Lợi Phất ! Cõi đó vì sao tên là cõi Cực Lạc?


Vì chúng sanh trong cõi đó không có bị những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên nước đó tên là Cực Lạc.

 

Xá Lợi Phất! lại trong cõi Cực Lạc có bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới, bảy từng hàng cây, đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng, vì thế nên nước đó tên là Cực Lạc.


Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có ao bằng bảy châu báu, trong ao đầy dẫn nước đủ tám công đức, đáy thuần dùng cát vàng trải làm đất.

 

Vàng bạc, lưu ly, pha lê hiệp thành những thềm, đường ở bốn bên ao; trên thềm đường có lầu gác cũng đều nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não.


Trong ao có hoa sen lớn như bánh xe: hoa sắc xanh thời ánh sáng xanh, sắc vàng thời ánh sáng vàng, sắc đỏ thời ánh sáng đỏ, sắc trắng thời ánh sáng trắng, mầu nhiệm thơm tho trong sạch.

Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.


Xá Lợi Phất! Lại rong cõi nước của Đức Phật đó, thường trỗi nhạc trời, đất bằng vàng ròng, ngày đêm sáo trời rưới hoa trời mạn đà la.

 

Chúng sanh trong cõi đó thường vào lúc sáng sớm, đều lấy đãi hoa đựng những hoa tốt đem cúng dường mười muôn ức Đức Phật ở phương khác, đến giờ ăn liền trở về bổn quốc ăn cơm xong đi kinh hành.

 

Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.


Lài nữa, Xá Lợi Phất! Cõi đó thường có những giống chim mầu sắc xinh đẹp là thường, nào chim Bạch hạc, Khổng tước, Anh- võ, Xá- lợi, Ca- lăng- tần- già, Cọng- mạng; những giống chim đó ngày đêm sáu thời kêu tiếng hoà nhã.

 

Tiếng chim đó diễn nói những pháp như ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần..v..v.. Chúng sanh trong cõi đó nghe tiếng chim xong thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng!

 

Xá- Lợi- Phất! Ông chớ cho rằng những giống chim đó thiệt là do tội báo sanh ra. Vì sao?


Vì cõi của Đức Phật đó không có ba đường dữ. Xá- Lợi- Phất! Cõi của Đức Phật đó tên đường dữ còn không có huống gì lại có sự thật. Những giống chim đó là do Đức Phật A Di Đà muốn làm cho tiếng pháp được tuyên lưu mà biến hoá làm ra đấy thôi.


Xá- Lợi- Phất! Trong cõi nước của Đức Phật đó, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và động mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi diệu, thí như trăm nghìn thứ nhạc đồng một lúc hoà chung.


Người nào nghe tiếng đó tự nhiên đều sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.


Xá- Lợi- Phất! Cõi nước của Đức Phật đó thành tựu công đức trang ngiêm dương ấy.

 

CHÁNH-BÁO VÔ-LƯỢNG THÙ-THẮNG

 

 

Xá- Lợi- Phất! Nơi ý ông nghĩ sao? Đức Phật đó vì sao hiệu là A Di Đà?


Xá-Lợi- Phất! Đức Phật đó, hào quang sáng chói vô lượng, soi suốt các cõi nước trong mười phương không bị chướng ngại vì thế nên hiệu là A Di Đà.

 

Xá- Lợi- Phất! Đức Phật đó và nhân dân của Ngài sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, nên hiệu là A Di Đà.

 

Xá- Lợi- Phất! Đức Phật A Di Đà thành Phật nhẫn lại đến nay, đã được mười kiếp.


Xá- Lợi- Phất! Lại Đức Phật đó có vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử đều là bực A La Hán, chẳng phải ính đếm mà có thể biết được, hàng Bồ Tát chúng cũng đông như thế.

 

Xá- Lợi- Phất! Cõi nước của Đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.


2


PHÁT “NGUYỆN” VÃNG SANH

 

 

Khi có TÍN-TÂM rồi, thì phải phát “NGUYỆN” CẦU SANH VỀ CÕI CỰC-LẠC, để cùng ở CHUNG với các bậc THƯỢNG THIỆN-NHƠN. Cho nên, được không THỐI-CHUYỂN nơi QỦA VỊ BỒ ĐỀ của PHẬT

 

 

Xá- Lợi- Phất! Lại trong cõi Cực Lạc, những chúng sanh vãng sanh vào đó đều là bực bất thối chuyển.

 

Trong đó có rất nhiều vị bực nhất sanh bổ xứ, số đó rất đông, chẳng phải tính đếm mà hết được, chỉ có thể dùng số vô lượng vô biên a – tăng – kỳ để nói thôi!


Xá- Lợi- Phất! Ch
úng sanh nào nghe những điều trên đây, nên phải phát nguyện cầu sanh về nước đó.

 

Ví sao? Vì đặng cùng với các bậc Thượng thiện nhơn như thế câu hội một chỗ.



NHƠN-HẠNH VÃNG-SANH

 

 

Khi có TÍN và NGUYỆN rồi, thì phải lập “HẠNH” niệm PHẬT, mới có nhiều THIỆN-CĂN PHƯỚC-ĐỨC NHƠN-DUYÊN mà được sanh về cõi đó.

 

TÍN và NGUYỆN là phần LÝ

 HẠNH niệm PHẬT là phần SỰ

 

Phải đầy đủ “LÝ và SỰ” mới được vãng sanh về CỰC-LẠC, cũng như người biết nhà CHÁY  là (LÝ), thì phải tìm cách thoát RA là  (SỰ), thì mới thoát khỏi NẠN LỬA.


Tu SỰ chẳng chấp tướng, thì sắc tức là không.
Tu LÝ chẳng bỏ SỰ, đó tức không là sắc.

Ẩn-Tu Ngẫu Vịnh

HT Thích Thiền-Tâm



Xá- Lợi- Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhơn duyên mà được sanh về cõi đó.


( Đây là nói niệm PHẬT thì  được “NHIỀU” THIỆN-CĂN PHƯỚC-ĐỨC NHƠN-DUYÊN)

 

 

Xá- Lợi- Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu của Đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, một lòng không tạp loạn.


Thời người đó đến lúc lâm chung Đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh Chúng hiện thân ở trước người đó.


( Đây là nói về SỰ-NHỨT TÂM và LÝ-NHỨT TÂM)


Trong “NIỆM PHẬT THẬP YẾU”   nói về SỰ NHỨT-TÂM, LÝ-NHỨT-TÂM như sau:-



* Sự-nhứt-tâm là thế nào? - Khi hành-giả chuyên tâm chú-ý trên sáu chữ hồng-danh, lâu ngày tất cả tạp niệm đều dứt bặt, lúc nằm ngồi đi đứng duy có một câu Phật-hiệu hiện tiền, gọi là cảnh-giới Sự-nhứt-tâm. Đây là định cảnh của người tu Tịnh-độ, cũng ngang hàng với sự nhập định của bậc tu Thiền.


* Lý-nhứt-tâm là thế nào? - Trên Sự-nhứt-tâm nếu tiến thêm một bước, dụng công đến chỗ chí cực, ngày kia tâm địa rỗng suốt, thoát hẳn căn trần ngộ vào thật-tướng. Khi ấy hiện tại tức là Tây-Phương mà chẳng ngại gì riêng có cõi Cực-Lạc, tánh mình chính là Di-Đà cũng chẳng ngại gì riêng có đức A-Di-Đà. Đây là cảnh-giới Lý-nhứt-tâm. Địa-vị nầy là cảnh "định huệ nhứt như" của người niệm Phật, ngang hàng với trình-độ khai-ngộ bên Thiền Tông.


* Với thuyết Sự, Lý-nhứt-tâm, Ngẫu-Ích đại-sư đã giản-biệt tường-tận. Ngài bảo: "Không luận sự-trì hay lý-trì; niệm đến hàng phục phiền-não, kiến-hoặc tư-hoặc không khởi hiện, là cảnh giới Sự-nhứt-tâm. Không luận sự-trì hay lý-trì, niệm đến tâm khai, thấy rõ bản tánh Phật, là cảnh-giới Lý-nhứt-tâm. Sự-nhứt-tâm không bị kiến, tư hoặc làm loạn. Lý-nhứt-tâm không bị nhị-biên làm loạn" (Nhị biên: có, không - đoạn, thường v.v...)


Như thế chẳng nói chi Lý-nhứt-tâm, với Sự-nhứt-tâm người đời nay cũng chẳng dễ gì đi đến. Tuy nhiên, với công-đức của câu niệm Phật cộng thêm sự chí thiết hành-trì, trong mỗi niệm sẽ diệt được một phần vô minh thêm một phần phước-huệ, lần lần tất sẽ đi đến cảnh giới tốt. Và hành-trì lâu ngày như thế, lo gì không tiến đến chỗ mỗi niệm khai ngộ, được hảo-cảnh gọi là "Nhứt phiên đề khởi nhứt phiên tân" (Một phen đề khởi niệm, một phen lộ bày cảnh mới).


Cho nên, dù là căn tánh thời mạt, nếu thiết thật dụng công, trình-độ Sự, Lý-nhứt-tâm đối với chúng ta chẳng phải tuyệt phần hy vọng?


Tuy nhiên, nếu chưa đạt được trình độ SỰ, LÝ-NHỨT-TÂM, thì người tu TỊNH-ĐỘ HẰNG NGÀY PHẢI TÌM CÁCH PHÁ TRỪ: 3 ĐIỀU NGHI, 4 CỬA ẢI, để không bị chướng ngại cho sự vãng-sanh của QÚY-VỊ.


Từ-Chiếu đại-sư nói: "Người tu Tịnh-độ khi lâm chung thường có ba điều nghi, bốn cửa ải, hay làm chướng ngại cho sự vãng-sanh, phải dự bị suy nghĩ trước để phá trừ.

Ba điều nghi là:

1.- Nghi mình túc-nghiệp sâu nặng, thời gian công phu tu hành ít, e không được   
     vãng-sanh.

2.- Nghi mình bản nguyện chưa trả xong, tham sân si chưa dứt, e không được  
     vãng-sanh.

3- Nghi mình niệm Phật, Phật không đến rước, e không được vãng-sanh.


Bốn cửa ải là:



1.- Hoặc nhân bị bịnh khổ mà trở lại hủy báng Phật không linh.

2.- Hoặc nhân tham sống mà giết vật mạng cúng tế.

3.- Hoặc nhân uống thuốc mà dùng rượu cùng chất máu tanh hôi.

4.- Hoặc nhân ái luyến mà tự ràng buộc với gia đình.



Nếu phá trừ được “TAM NGHI, TỨ QUAN”, thì chắc chắn chúng ta sẽ được “ĐỚI NGHIỆP VÃNG-SANH”, còn được ĐỊA VỊ CAO THẤP, LÀ DO CÔNG PHU TRÌ CHÚ hoặc NIỆM PHẬT có sâu cạn khác nhau.



Tam Nghi Tứ Quan



Từ-Chiếu đại-sư nêu ra thuyết “Tam Nghi Tứ Quan” ở trên, bậc trí huệ có thể suy nghĩ tìm phương pháp giải quyết.

Nay bút giả (HT. THÍCH THIỀN-TÂM) xin mạn phép nói lược qua cách phá trừ để góp ý, và các bạn đồng tu với sự hiểu biết của mình, có thể suy diễn hiểu rộng thêm ra.

1.- Phá mối nghi túc nghiệp nặng, công tu ít:

-Phật A Di Đà từng có lời thệ nguyện: "Chúng sanh nào chí tâm muốn về Cực Lạc, niệm danh hiệu Ngài cho đến mười niệm, nếu không được vãng sanh, Ngài thề không thành Phật."

Phật không khi nào nói dối, vậy hành giả phải tin nơi đức Từ Tôn. Mười niệm là thời gian công phu tu hành rất ít mà còn được vãng sanh, huống chi ta niệm nhiều hơn số đó.

Lại dù kẻ nghiệp nặng đến đâu, như phạm trai phá giới, tạo đủ nghiệp ác, nếu chí tâm sám hối nương về Phật A Di Đà, Ngài đều tiếp dẫn.

Kinh Quán Vô Lượng Thọ đã chẳng nói kẻ tạo tội nặng ngũ nghịch thập ác, khi lâm chung chí tâm niệm mười niệm đều được vãng sanh đó ư?

Trong truyện Vãng Sanh, như Trương Thiện Hòa, Hùng Tuấn, Duy Cung, trọn đời giết trâu bò, phá giới, làm ác, khi lâm chung tướng địa ngục hiện, sợ hãi niệm Phật, liền thấy Phật đến rước. Cho đến loài chim sáo, két niệm Phật , còn được vãng sanh, huống chi ta chưa phải là tệ đến mức đó?

2.- Phá mối nghi bản nguyện chưa trả, tham sân si chưa dứt:

- Bản nguyện của hành giả đại khái có hai: đạo và đời.

Về đạo, có người nguyện cất chùa bố thí hay nguyện tụng số kinh chú bao nhiêu, làm chưa tròn đã đến giờ chết. Phải nghĩ rằng: chỉ tín tâm niệm Phật, khi được vãng sanh sẽ làm vô lượng vô biên công đức, còn bản nguyện chỉ là việc nhỏ, làm xong hay chưa không mấy quan hệ, và chẳng có hại chi cả.

Về đời, hoặc có người vì nhiệm vụ gia đình chưa tròn, như cha mẹ suy già không ai săn sóc, vợ con thơ dại thiếu chỗ tựa nương, hoặc có kẻ thiếu nợ người chưa kịp trả, tâm nguyện chưa vẹn nên lòng chẳng yên. Phải nghĩ rằng: lúc ta sắp chết, dù có lo hay không cũng chẳng làm sao được. Chi bằng chuyên tâm niệm Phật, khi đã được vãng sanh Tây Phương chứng đạo quả, thì tất cả bản nguyện trái duyên đều có thể trả xong, tất cả kẻ oán người thân đều có thể cứu độ.

Lại Kinh Na Tiên nói: "Ví như hột cát nhẹ, bỏ xuống nước liền chìm. Trái lại tảng đá dù nặng to, nếu được thuyền chở, có thể đem từ chỗ này sang chỗ khác.

Người niệm Phật cũng thế, nghiệp tuy nhẹ nếu không được Phật cứu độ, tất bị luân hồi, tội chướng dù nặng bao nhiêu, được Phật tiếp dẫn sẽ sanh về Cực Lạc."

Theo đoạn kinh đây, ta thấy môn Niệm Phật là pháp có thể đới nghiệp vãng sanhvì nhờ tha lực. Tảng đá lớn ví cho sức nghiệp nặng to, thuyền chở ví cho nguyện lực của Phật. Vậy người tu đừng nghĩ rằng mình còn tham, sân, si, e không được vãng sanh. Thí dụ trên có thể phá luôn điểm nghi về nghiệp nặng ở điều thứ nhứt.

3. Phá mối nghi niệm Phật, e Phật không đến rước:

- Người niệm Phật tùy theo công đức mình, khi lâm chung thấy Phật, hoặc Bồ Tát, hay Thánh chúng đến rước. Có khi không thấy chi, mà nhờ sức nguyện của mình và Phật lực thầm nhiếp thọ, thần thức tự bay về Tây Phương.

Đây là bởi công hạnh của mình có cao thấp, sâu cạn. Chỉ cần yếu lúc ấy ta phải chí tâm niệm Phật, đừng nghĩ chi sai khác. Nếu nghi ngờ sẽ tự sanh ra chướng ngại.

Tóm lại, khi lâm chung dù thấy tướng tốt hay không cũng đừng quản đến, chỉ hết lòng niệm Phật cho đến giây phút cuối cùng mà thôi.

* Phá chung bốn cửa ải:

1.- Nhân bịnh khổ hủy báng Phật
2.- Tham sống sát sanh cúng tế
3.- Cầu lành bịnh uống ruợu, hoặc dùng thuốc có chất huyết tanh
4.- Vì ái luyến nên tâm niệm ràng buộc với gia đình.

Người niệm Phật mà bị tai nạn bịnh khổ, đó là do nhờ công đức tu hành, nên chuyển quả nặng thành quả nhẹ, chuyển hậu báo thành hiện báo, trả cho hết để được sanh về Tây Phương. Nếu trở lại nghi ngờ hủy báng, là người kém tin hiểu, phụ ơn Phật, tự gây tội chướng cho mình. 

Trong sự tích Tịnh Độ có thuật chuyện ông Ngô Mao cùng rất nhiều Phật tử khác, nhờ dồn nghiệp mà sớm được vãng sanh. Vậy khi gặp cảnh này, người niệm Phật nên ý thức để hiểu rõ.

Lời bàn: 

Người tu NIỆM PHẬT hoặc TRÌ CHÚ thì mỗi ngày nghiệp chướng tiêu trừ, THIỆN CĂN TĂNG TRƯỞNG, ĐỊNH-LỰC KIÊN CỐ, NÊN TẤT CẢ NGHIỆP CHƯỚNG TRONG QUÁ KHỨ KHÔNG CÓ NHÂN DUYÊN PHÁT SANH, CŨNG NHƯ TRIỆU THỐ THEO NGỘ ĐẠT QUỐC SƯ 10 ĐỜI để đồi mạng MÀ KHÔNG LÀM GÌ ĐƯỢC như trong KINH THỦY SÁM đã nói, lại có thể chuyển TAI NẠN BỊNH KHỔ nặng thành nhẹ, nhẹ thành không. Dù chưa trả hết nghiệp, vẫn được vãng-sanh. Cho nên, trong KINH gọi là “ĐỚI NGHIỆP VÃNG-SANH” LÀ LÝ DO NẦY VẬY.

Khi được vãng-sanh, thì QÚY-VỊ có thể dùng ỨNG THÂN, hoặc HÓA THÂN ĐỂ ĐỘ TẤT CẢ TẤT KẼ OÁN NGƯỜI THÂN Ở KHẮP 10 PHƯƠNG ĐỀU THÀNH PHẬT ĐẠO.

Lại thân này giả tạm, tùy theo tội nghiệp mà kiếp sống có vui khổ lâu mau. Nếu giết sanh mạng để nuôi dưỡng sanh mạng, hoặc cúng tế, thì tội khổ càng thêm nặng, phải triệt để nương theo Phật và tin chắc lý nhân quả.

Khi đau yếu chỉ cầu Phật, không nên cầu phù phép tà sư, hoặc nghe lời kẻ chưa hiểu đạo, trở lại ăn mặn, uống rượu, hay dùng thuốc bằng chất máu huyết tanh hôi. Thân này nhơ nhớp, được về cõi Phật sớm chừng nào hay chừng ấy, như bỏ chiếc áo hôi rách mặc sắc phục đẹp thơm, đáng chi phải bận lòng?

Đến như mối hại về ái luyến khi lâm chung, thì như đoạn trên đã nói. Phải nghĩ: trong gia đình từ cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái, đều do đời trước có nợ nần ân oán, nên mới tạm hội ngộ nhau. Khi nhân duyên đã hết thì mỗi người đi mỗi ngả. Nếu có lòng thương, tốt hơn ta nên gát bỏ tình trần cầu sanh Tây Phương, để độ tất cả kẻ oan thân

Khi cái chết sắp đến, dù có quyến luyến cũng không thể đem theo, không làm chi được, bởi chính sắc thân của ta còn phải tan về cát bụi. Nếu ái luyến thì đã không được vãng sanh, lại bị khổ luân hồi vô cùng vô tận.

Những điểm về Tam Nghi Tứ Quan trên đây, hành giả phải suy nghiệm ghi nhớ kỹ, để dự bị trước cho tinh thần được yên ổn trong lúc lâm chung. 

 

Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.

 

( Đây là ĐỚI-NGHIỆP VÃNG SANH)

 


Xá- Lợi- Phất! Ta thấy có sự lợi ích ấy nên nói những lời như thế.


Nếu có chúng sanh nào, nghe những lời trên đó, nên phải phát nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc.



(

 

Thông thường thì khi  PHẬT THUYẾT KINH XONG, thì Ngài  XÁ-LỢI-PHẤT hay người ĐƯƠNG-CƠ phải thưa hỏi PHẬT  “TÊN KINH, CÁCH THỌ-TRÌ và LƯU-THÔNG NHƯ THẾ NÀO?”

Nhưng vì đại chúng không “AI” biết CẢNH GIỚI CỦA KINH A-DI-ĐÀ  nầy, cho nên chư PHẬT Ở 6 PHƯƠNG PHẢI LÀM  CHÚNG ĐƯƠNG-CƠ cho  PHẬT THÍCH-CA  TỰ nói ra TÊN KINH  là:

 

“ Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức

Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm KINH”. 


ĐỂ CHÚNG SANH Y THEO "TÊN KINH" MÀ NIỆM PHẬT ( KHI NIỆM PHẬT THÌ GỒM ĐỦ TÍN, NGUYỆN và HẠNH).


 CHO NÊN,  NGÀI CƯU-MA-LA THẬP DỊCH LẤY TÊN KINH LÀ :


"PHẬT THUYẾT KINH A-DI-ĐÀ" 


và CHỈ CÓ 6 PHƯƠNG CHƯ PHẬT HỘ NIỆM.


LÀ VÌ NIỆM PHẬT, THÌ THÀNH TỰU  CÔNG ĐỨC và ĐƯỢC CHƯ PHẬT HỘ NIỆM. TÊN KINH TUY KHÁC MÀ "Ý" VẪN  NHƯ NHAU.


CÒN NGÀI HUYỀN-TRANG DỊCH LẤY TÊN LÀ :


 XƯNG TÁN TỊNH-ĐỘ PHẬT NHIẾP THỌ KINH 


THÌ CÓ ĐỦ 10 PHƯƠNG CHƯ PHẬT HỘ NIỆM.



DÙ cho DỊCH  6 PHƯƠNG hay là 10 PHƯƠNG, THÌ CŨNG DỊCH CÙNG Ý LÀ :


“ Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức

Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm KINH”.


)

 

Comments

Popular posts from this blog