KINH THIÊN-THỦ THIÊN-NHÃN

QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT QUẢNG-ÐẠI VIÊN-MÃN

VÔ-NGẠI ĐẠI-BI-TÂM ÐÀ-RA-NI

 

Đời Đường, Sa-môn Dà-Phạm Đạt-Mạ người xứ Tây-Thiên-Trúc dịch 

 

II. PHẦN CHÁNH TÔNG


Là Y theo “TÊN CHÚ” mà “THỌ TRÌ” tức là TÍN-GIẢI  nghĩa lý của TÊN KINH, rồi theo đó mà NIỆM PHẬT, TRÌ CHÚ để HÀNH-CHỨNG cảnh giới NHƯ TÊN  KINH đã nói, đây là PHẦN CHÁNH TÔNG


KINH VĂN:


Ngài A-Nan lại bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Chú này tên gọi là chi? Con nên thọ trì như thế nào?” 


Đức Phật bảo:  “Thần chú này có những tên như sau: 



1. QUẢNG-ĐẠI VIÊN-MÃN ĐÀ-RA-NI. 
2. VÔ-NGẠI ĐẠI-BI ĐÀ-RA-NI. 
3. CỨU-KHỔ ĐÀ-RA-NI. 
4. DIÊN-THỌ ĐÀ-RA-NI. 
5. DIỆT-ÁC-THÚ ĐÀ-RA-NI. 
6. PHÁ-ÁC-NGHIỆP-CHƯỚNG ĐÀ-RA-NI. 
7. MÃN-NGUYỆN ĐÀ-RA-NI. 
8.TÙY-TÂM-TỰ-TẠI ĐÀ-RA-NI. 
9. TỐC-SIÊU THÁNH-ĐỊA ĐÀ-RA-NI. 

Ông nên y như thế mà thọ trì”. 


GIẢNG GIẢI:


A Nan bạch Phật rằng… Khi ấy, Tôn giả A Nan thưa với Đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn, chú này tên gọi là gì? Chẳng hay tên của bài chú này là gì?” Quý vị cho rằng trong phần trước ngài A Nan đã nghe Bồ Tát Quán Thế Âm thuyết giảng dông dài như thế mà vẫn chưa biết được tên của bài chú này hay sao? 

“Thọ trì như thế nào? Và chẳng hay chúng con phải tụng niệm, thọ trì bài chú này như thế nào?”

Đức Phật bảo A Nan: “Thần chú này có vô số tên gọi.” Bài chú vi diệu như thế này không phải chỉ có một mà là rất nhiều tên gọi khác nhau. Thí dụ như người này có tên là Steve, lại cũng được gọi là Quả Chiêm; và anh ta còn có một cái tên khác nữa, đó là gì vậy? Còn người kia có tên là Quả Ninh, lại cũng được gọi là Hằng Tịnh--một người có thể có rất nhiều tên gọi khác nhau. Bài chú này cũng vậy, cũng có nhiều tên gọi khác nhau:

1) Một tên là Quảng Đại Viên Mãn. Chú này có một tên là “Quảng Đại Viên Mãn”, tức là vừa rộng lớn lại vừa tròn đầy.

2) Một tên là Vô Ngại Đại Bi. “Vô ngại đại bi” tức là đã không có chỗ chướng ngại mà còn đầy đủ tánh đại bi.

3) Một tên là Cứu Khổ Đà La Ni. “Cứu Khổ Đà La Ni” tức là một loại thần chú tổng trì có công năng cứu giúp tất cả tật bệnh khổ não.

4) Một tên là Diên Thọ Đà La Ni. Nếu có người đang lúc hấp hối mà được quý vị niệm Chú Đại Bi cho, thì người đó sẽ được sống lâu thêm, cho nên chú này còn được gọi là chú tổng trì Trường Mệnh.

5) Một tên là Diệt Ác Thú Đà La Ni. “Diệt ác thú” tức là có công năng tiêu diệt bốn đường ác - địa ngục, ác quỷ, súc sanh và A tu la.

6) Một tên là Phá Ác Nghiệp Chướng Đà La Ni. Chú này có công năng phá trừ tất cả các nghiệp chướng xấu ác. Thế nhưng, quý vị chớ nên cho rằng bởi Chú Đại Bi là Đà La Ni có thể phá trừ các nghiệp ác, bèn niệm chú này rồi tha hồ tạo ác tác nghiệp, thì cũng được phá trừ: “Cho dù mình có gây tạo một chút nghiệp chướng đi chăng nữa thì đã có Chú Đại Bi sẵn sàng giải trừ cho mình. A! Nếu mình mặc sức gây tạo, thì Chú Đại Bi cũng sẽ tận lực phá trừ, giống như ‘phá trận’ vậy.” Chẳng phải như thế đâu!

Những nghiệp chướng xấu ác trước kia của quý vị thì Chú Đại Bi có thể phá giải được; song nay quý vị đã biết rõ rằng nghiệp chướng này đích thị là nghiệp chướng xấu ác, thì lẽ ra quý vị không nên tạo tác nữa mới phải! Nếu nay quý vị còn tiếp tục gây thêm nghiệp chướng xấu ác nữa, thì đừng nói là một cái Đà La Ni, cho dù một vạn cái Đà La Ni cũng không thể nào phá nổi nghiệp chướng xấu ác “biết rõ mà vẫn cố phạm” của quý vị được! Cho nên, quý vị cần phải hiểu rõ điểm này.

7) Một tên là Mãn Nguyện Đà La Ni. Chú này lại có một tên gọi nữa là Mãn Nguyện Đà La Ni. Quý vị trì niệm Chú này thì cầu chi được nấy.

Thí dụ quý vị ao ước: “Tôi muốn được phát tài”, thì quý vị hãy niệm Chú Đại Bi tất sẽ được phát tài. Hoặc quý vị nói: “Tôi muốn được làm quan!”, thì quý vị cũng sẽ được toại nguyện. Hoặc nói rằng: “Tôi vẫn còn muốn nhiều thứ nữa, tôi muốn đến Reno đánh bạc! Thế thì tôi niệm Chú Đại Bi liệu có được linh ứng chăng? Tôi viết cái lottery này sẽ trúng chứ? Viết mười chữ thì trúng được chín chữ, hoặc cả mười chữ; có thể được không?” Điều này thì tôi không biết chắc, tôi không thể bảo đảm được. I don’t guarantee it! Quý vị cầu xin những việc chánh đáng thì tôi bảo đảm; còn nếu cầu xin điều tà vạy thì tôi chẳng thể bảo đảm được!

8) Một tên là Tùy Tâm Tự Tại Đà La Ni. Chú này còn có tên là Tùy Tâm Tự Tại—quý vị trong lòng nghĩ cái gì thì sẽ đạt được cái nấy.

9) Một tên là Tốc Siêu Thượng Địa Đà La Ni. Chú tổng trì này lại còn có tên là Tốc Siêu Thượng Địa - sẽ giúp hành giả vượt lên đến vị trí Thập Địa một cách mau chóng.

"Hãy y như thế mà thọ trì.” Trên đây là một số tên gọi khác nhau của Chú Đại Bi, quý vị nên “nhìn tên mà nghĩ đến nghĩa” (cố danh tư nghĩa), rồi chiếu theo đó mà thọ trì, tu hành.

Trong số các vị sẽ sang Đài Loan cầu giới [Cụ Túc] chuyến này, có một vị đã hỏi tôi: Đến đó [Đài Loan] rồi chúng con có được ăn thịt không?” Quý vị thử đoán xem người nêu thắc mắc đó là ai? Tôi nói cho quý vị biết, đó chính là người đã tới hỏi tôi câu hỏi ấy đấy! Tôi trả lời rằng họ có thể ăn thịt; nhưng phải ăn thứ thịt nào? Phen này là phải ăn “thịt” Lăng Nghiêm!

Một vị khác lại hỏi tôi: “[Đến Đài Loan] con có được phép uống rượu không?” Quý vị đừng thắc mắc là ai hỏi, nói chung là một người thích uống rượu hỏi đấy! Tôi bảo người đó rằng anh ta có thể uống rượu; nhưng phải uống loại rượu nào? Phải uống “rượu” Đại Bi! Mọi người hãy lấy Lăng Nghiêm làm thịt, lấy Đại Bi làm rượu!

Nói thế thì có cần ăn cơm hay không? Cơm thì đương nhiên là phải ăn rồi; thế thì các vị nên ăn thứ cơm nào? Ăn “cơm” Pháp Hoa! Hãy lấy Kinh Pháp Hoa làm cơm để ăn!

Tôi cần căn dặn các vị là lúc ở trên máy bay thì các vị chớ nên bồn chồn lo sợ. Các vị có “thịt Lăng Nghiêm” ăn no nê, có “rượu Đại Bi” uống thỏa thích, có “cơm Pháp Hoa” đầy một bụng—thì không có điều gì phải lo lắng, sợ hãi nữa cả! Chiếc máy bay đó cho dù đáng lẽ phải gặp chuyện rủi ro, thì cũng sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra đâu! Bởi vì các vị đã có ba món bảo bối này bảo vệ, che chở cho mình rồi. Thêm vào đó là nhóm năm người của các vị nữa, thành ra có đến bốn thứ bảo bối lận! Vì thế, các vị chớ nên sợ hãi. Tuy nhiên, nếu các vị hiểu rõ được đạo lý mà tôi đang nói đây thì các vị mới có thể uống thứ rượu này, ăn thứ thịt này, và ăn thứ cơm này; còn nếu chưa hiểu thì hãy đi tham cứu ngay đi!


(Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng thuật tại Phật Giáo Giảng Đường, 

San Francisco, Hoa Kỳ, năm 1969)  

 



KINH VĂN:


Đức Phật bảo Tổng Trì Vương Bồ Tát: 

'Thiện nam tử! Các ông nên biết trong pháp hội này, có vị Bồ Tát Ma Ha Tát, tên là Quán Thế Âm Tự Tại, từ vô lượng kiếp đến nay đã thành tựu tâm đại từ bi, lại khéo tu tập vô lượng Đà la ni môn. Vị Bồ Tát ấy vì muốn làm cho chúng sanh được lợi ích an vui, nên mới mật phóng sức thần thông như thế'. 

Đức Như Lai vừa nói lời ấy xong, Quán Thế Âm Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục nghiêm chỉnh, chắp tay hướng về Phật mà thưa rằng: ''Bạch đức Thế Tôn, tôi có chú Đại Bi tâm đà ra ni, nay xin nói ra, vì muốn cho chúng sanh được an vui, được trừ tất cả bịnh, được sống lâu, được giàu có, được diệt tất cả nghiệp ác tội nặng, được xa lìa chướng nạn, được thành tựu tất cả thiện căn, được tiêu tan tất cả sự sợ hãi, được mau đầy đủ tất cả những chỗ mong cầu. Cúi xin Thế Tôn từ bi doãn hứa. 

Đức Phật bảo: Thiện nam tử! Ông có tâm đại từ bi, muốn nói thần chú (20) để làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh. Hôm nay chính là lúc hợp thời, vậy ông nên mau nói ra, Như Lai tùy hỉ chư Phật cũng thế. 

Quán Thế Âm Bồ Tát lại bạch Phật: Bạch đức Thế tôn! Tôi nhớ vô lượng ức kiếp về trước, có Phật ra đời, hiệu là Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai, đức Phật ấy vì thương nghĩ đến tôi và tất cả chúng sanh nên nói ra môn Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, ngài lại dùng tay sắc vàng xoa nơi đầu tôi mà bảo: Thiện nam tử! Ông nên thọ trì tâm chú này và vì khắp tất cả chúng sanh trong cõi nước ở đời vị lai mà làm cho họ được sự an vui lớn. 

Lúc đó tôi mới ở ngôi sơ địa, vừa nghe xong thần chú này liền chứng vượt lên đệ bát địa. Bấy giờ tôi rất vui mừng, liền phát thệ rằng: 

Nếu trong đời vị lai, tôi có thể làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh với thần chú này, thì xin khiến cho thân tôi liền sanh ra ngàn tay ngàn mắt. 

Khi tôi phát thệ rồi, thì ngàn tay ngàn mắt đều hiện đủ nơi thân, lúc ấy, cõi đất 10 phương rung động 6 cách (21), ngàn đức Phật trong 10 phương đều phóng ánh quang minh soi đến thân tôi, và chiếu sáng 10 phương vô biên thế giới. Từ đó về sau, tôi ở trong vô lượng pháp hội của vô lượng chư Phật, lại được nghe và thọ trì môn đà ra ni này. Mỗi lần nghe xong, tôi khôn xiết vui mừng, liền được vượt qua sự sanh tử vi tế (22) trong vô số ức kiếp. Và từ ấy đến nay, tôi vẫn hằng trì tụng chú này, chưa từng quên bỏ. Do sức trì tụng ấy, tùy theo chỗ sanh, tôi không còn chịu thân bào thai, được hóa sanh nơi hoa sen, thường gặp Phật nghe pháp. Nếu có vị Tì khưu, Tỳ khưu ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di (23) hay đồng nam, đồng nữ nào muốn tụng trì chú này, trước tiên phải phát tâm từ bi đối với chúng sanh, và sau đây y theo tôi mà phát nguyện:

 

Nam mô đại bi Quán Thế Âm, 
nguyện con mau biết tất cả pháp. 
Nam mô đại bi Quán Thế Âm, 
nguyện con sớm được mắt trí huệ. 
Nam mô đại bi Quán Thế Âm, 
nguyện con mau độ các chúng sanh, 
Nam mô đại bi Quán Thế Âm, 
nguyện con sớm được phương tiện khéo. 
Nam mô đại bi Quán Thế Âm, 
nguyện con mau lên thuyền bát nhã. 
Nam mô đại bi Quán Thế Âm, 
nguyện con sớm được qua biển khổ, 
Nam mô đại bi Quán Thế Âm, 
nguyện con mau được đạo giới định. 
Nam mô đại bi Quán Thế Âm, 
nguyện con sớm lên non Niết Bàn. 
Nam mô đại bi Quán Thế Âm, 
nguyện con mau về nhà vô vi. 
Nam mô đại bi Quán Thế Âm, 
nguyện con sớm đồng thân pháp tánh. 
Nếu con hướng về nơi non đao, 
non đao tức thời liền sụp đổ. 
Nếu con hướng về lửa, nước sôi, 
nước sôi, lửa cháy tự khô tắt. 
Nếu con hướng về cõi địa ngục, 
địa ngục liền mau tự tiêu diệt, 
Nếu con hướng về loài ngạ quỷ. 
Ngạ quỷ liền được tự no đủ, 
Nếu con hướng về chúng Tu La, 
Tu la tâm ác tự điều phục, 
Nếu con hướng về các súc sanh, 
súc sanh tự được trí huệ lớn.

 

Khi phát lời nguyện ấy xong, chí tâm xưng danh hiệu của tôi, lại chuyên niệm danh hiệu bổn sư tôi là đức A Di Đà Như Lai (24), kế đó tiếp tụng đà ra ni thần chú này. Nếu chúng sanh nào, trong một ngày đêm tụng năm biến chú, sẽ diệt trừ được tội nặng trong ngàn muôn ức kiếp sanh tử. 

Quán Thế Âm Bồ Tát lại bạch Phật: Bạch đức Thế Tôn! Nếu chúng sanh nào trì tụng thần chú Đại Bi mà còn bị đọa vào 3 đường ác, tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không được sanh về các cõi Phật, tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không được vô lượng tam muội biện tài (25) tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi tất cả sự mong cầu trong đời hiện tại, nếu không được vừa ý, thì chú này không được gọi là Đại Bi tâm đà ra ni, duy trừ cầu những việc bất thiện, trừ kẻ tâm không chí thành. Nếu các người nữ chán ghét thân nữ, muốn được thân nam, tụng trì thần chú Đại Bi, như không chuyển nữ thành nam, tôi thề không thành chánh giác. Như kẻ nào tụng trì chú này, nếu còn sanh chút lòng nghi, tất không được toại nguyện. Nếu chúng sanh nào xâm tổn tài vật, thức ăn uống của thường trụ (26) sẽ mang tội rất nặng, do nghiệp ác ngăn che, giả sử ngàn đức Phật ra đời cũng không được sám hối, dù có sám hối cũng không trừ diệt. Nếu đã phạm tội ấy, cần phải đối 10 phương đạo sư sám hối, mới có thể tiêu trừ. Nay do tụng trì chú Đại Bi liền được trừ diệt. Tại sao thế? Bởi khi tụng chú Đại Bi tâm đà ra ni, 10 phương đạo sư đều đến vì làm chứng minh, nên tất cả tội chướng thảy đều tiêu diệt. Chúng sanh nào tụng chú này, tất cả tội thập ác ngũ nghịch (27), báng pháp, phá người, phá giới, phạm trai, hủy hoại chùa tháp, trộm của tăng kỳ (28), làm nhơ phạm hạnh (29), bao nhiêu tội ác nghiệp nặng như thế đều được tiêu hết, duy trừ một việc: kẻ tụng đối với chú còn sanh lòng nghi. Nếu có sanh tâm ấy, thì tội nhỏ nghiệp nhẹ cũng không được tiêu, huống chi tội nặng? Nhưng tuy không liền diệt được tội nặng, cũng có thể làm nhân bồ đề về kiếp xa sau. 

Bạch đức Thế Tôn! Nếu các hàng trời, người tụng trì thần chú Đại Bi, thì không bị 15 việc chết xấu, sẽ được 15 chỗ sanh tốt. Thế nào là 15 việc chết xấu?

 

1. Không bị chết do đói khát khốn khổ. 
2. Không bị chết do gông tù đánh đập. 
3. Không bị chết vì oan gia thù địch. 
4. Không bị chết giữa quân trận chém giết nhau. 
5. Không bị chết do cọp sói cùng ác thú tàn hại. 
6. Không bị chết bởi rắn rít độc cắn. 
7. Không bị chết vì nước trôi lửa cháy. 
8. Không bị chết bởi phạm nhằm thuốc độc. 
9. Không bị chết do loài sâu trùng độc làm hại. 
10. Không bị chết vì điên cuồng mê loạn. 
11. Không bị chết do té cây, té xuống núi. 
12. Không bị chết bởi người ác trù ếm. 
13. Không bị chết bởi tà thần, ác quỷ làm hại. 
14. Không bị chết vì bịnh ác lâm thân. 
15. Không bị chết vì phi mạng tự hại.

 

Tụng trì thần chú Đại Bi, không bị 15 việc chết xấu như thế.

Sao gọi là 15 chỗ sanh tốt? 



1. Tùy theo chỗ sanh, thường gặp đấng quốc vương hiền lành. 
2. Tùy theo chỗ sanh, thường ở cõi nước an lành. 
3. Tùy theo chỗ sanh, thường gặp thời đại tốt, 
4. Tùy theo chỗ sanh, thường gặp bạn lành. 
5. Tùy theo chỗ sanh, thân căn thường được đầy đủ. 
6. Tùy theo chỗ sanh, đạo tâm thuần thục. 
7. Tùy theo chỗ sanh, không phạm cấm giới. 
8. Tùy theo chỗ sanh, thường được quyến thuộc hòa thuận, có ân nghĩa. 
9. Tùy theo chỗ sanh, vật dụng, thức ăn uống thường được đầy đủ. 
10. Tùy theo chỗ sanh, thường được người cung kính giúp đỡ. 
11. Tùy theo chỗ sanh, tiền của châu báu không bị kẻ khác cướp đoạt. 
12. Tùy theo chỗ sanh, những việc mong cầu đều được toại nguyện. 
13. Tùy theo chỗ sanh, long thiên, thiện thần thường theo ủng hộ. 
14. Tùy theo chỗ sanh, thường được thấy Phật nghe pháp. 
15. Tùy theo chỗ sanh, khi nghe chánh pháp ngộ giải nghĩa sâu.

Nếu kẻ nào trì tụng chú Đại Bi, sẽ được 15 chỗ sanh tốt như thế! Cho nên tất cả hàng trời, người, đều nên thường tụng trì, chớ sanh lòng biếng trễ. 

Khi đức Quán Thế Âm Bồ Tát nói lời ấy rồi, liền ở trước chúng hội, chắp tay đứng thẳng, nở mặt mỉm cười, nói chương cú màu nhiệm Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni rằng: 


Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát
Quảng Ðại Viên Mãn Vô Ngại Ðại Bi Tâm Ðà-Ra-Ni




Nam-mô hắc ra đát na đa ra dạ da.1

Nam-mô a rị da2, bà lô yết đế thước bát ra da3, Bồ-đề tát đỏa bà da4, ma ha tát đỏa bà da5, ma ha ca lô ni ca da6, án7, tát bàn ra phạt duệ8, số đát na đát tỏa9.

Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da10, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà11.

Nam-mô na ra cẩn trì12, hê rị ma ha bàn đa sa mế13, tát bà a tha đậu thâu bằng14, a thệ dựng15, tát bà tát đa, na ma bà tát đa, na ma bà già16, ma phạt đạt đậu17, đát điệt tha. 


Án18, a bà lô hê19, lô ca đế20, ca ra đế21, di hê rị22, ma ha bồ-đề tát đỏa23, tát bà tát bà24, ma ra ma ra25, ma hê ma hê, rị đà dựng26, cu- lô cu-lô kiết mông27, độ lô độ lô, phạt xà da đế28, ma ha phạt xà da đế29, đà ra đà ra30, địa rị ni31, thất Phật ra da32, dá ra dá ra33.

Mạ mạ phạt ma ra34, mục đế lệ35, y hê di hê36, thất na thất na37, a ra sâm Phật ra xá-lợi38, phạt sa phạt sâm39, Phật ra xá da40, hô lô hô lô ma ra41, hô lô hô lô hê lỵ42, ta ra ta ra43, tất rị tất rị44, tô rô tô rô45, bồ-đề dạ bồ-đề dạ46, bồ-đà dạ bồ-đà dạ47, di đế rị dạ48, na ra cẩn trì49, địa rị sắt ni na50, ba dạ ma na51, ta bà ha52.

Tất đà dạ53, ta bà ha54. Ma ha tất đà dạ55, ta bà ha56. Tất đà dủ nghệ57, thất bàn ra dạ58, ta bà ha59. Na ra cẩn trì60, ta bà ha61. Ma ra na ra62, ta bà ha63. Tất ra tăng a mục khê da64, ta bà ha65. Ta bà ma ha, a tất đà dạ66, ta bà ha67

Giả kiết ra a tất đà dạ68, ta bà ha69. Bà đà ma yết tất đà dạ70, ta bà ha71. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ72, ta bà ha73. Ma bà lỵ thắng yết ra dạ74, ta bà ha75.

Nam-mô hắt ra đát na, đa ra dạ da76.

Nam-mô a rị da77, bà lô yết đế78, thước bàng ra dạ79, ta bà ha80.
Án tất điện đô81, mạng đa ra82, bạt đà dạ83, ta bà ha84.



Bồ tát thuyết chú xong, cõi đất 6 phen biến động, trời mưa hoa báu rơi xuống rải rác, 10 phương chư Phật thảy đều vui mừng, thiên ma ngoại đạo sợ dựng lông tóc. Tất cả chúng hội đều được quả chứng. Hoặc có vị chứng quả Tu đà hoàn, có vị chứng quả Tư đà hoàn, hoặc có vị chứng quả A na hàm (30), có vị chứng quả A la hán, hoặc có vị chứng được sơ địa, nhị địa, tam địa, tứ địa, ngũ địa cho đến thập địa, vô lượng chúng sanh phát lòng bồ đề.

Khi ấy Đại Phạm thiên vương từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục nghiêm chỉnh, chắp tay cung kính bạch vớI đức Quán Thế Âm bồ tát rằng: Lành thay đại sĩ! Từ trước đến nay, tôi đã trải qua vô lượng phật hội, nghe nhiều pháp yếu, nhiều môn đà ra ni, song chưa từng nghe nói chương cú thần diệu Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni này. Cúi xin đại sĩ vì tôi, nói hình trạng tướng mạo của đà ra ni ấy. Tôi và đại chúng đều ưa thích muốn nghe. 

Quán Thế Âm Bồ tát bảo Phạm vương: 

Ông vì phương tiện lợI ích cho tất cả chúng sanh, nên hỏi như thế, nay ông khéo nghe, tôi sẽ vì ông mà nói lược qua. 

Này Phạm vương! Những tâm đại từ bi, tâm bình đẳng, tâm vô vi, tâm chẳng nhiễm trước, tâm không quán, tâm cung kính, tâm khiêm nhường, tâm không tạp loạn, tâm không chấp giữ, tâm vô thượng Bồ Đề, nên biết các thứ tâm này đều là tướng mạo của môn đà ra ni này. Vậy, ông nên y theo đó mà tu hành. 

Phạm vương thưa: Tôi và đại chúng hôm nay mới hân hạnh được biết tướng mạo của môn đà ra ni này, từ đây chúng tôi xin thọ trì chẳng dám lãng quên. 

Bồ tát lại nói tiếp: Nếu kẻ thiện nam, thiện nữ nào tụng trì thần chú này, phải phát tâm Bồ Đề rộng lớn, thề độ tất cả muôn loài, giữ gìn trai giới, đối vớI chúng sanh khởi lòng bình đẳng, và thường nên trì tụng chớ cho gián đoạn. Lại nên ở nơi tịnh thất, tắm gội sạch sẽ, mặc y phục sạch, treo phan, đốt đèn, dùng hương hoa, cùng các thứ ăn uống để cúng dường, buộc tâm một chỗ, chớ nghĩ chi khác, y như pháp mà tụng trì. Lúc ấy, sẽ có Nhựt Quang Bồ Tát, Nguyệt Quang Bồ Tát cùng vô lượng thần tiên đến chứng minh, giúp thêm sự hiệu nghiệm. Bấy giờ ta cũng dùng ngàn mắt chiếu soi, ngàn tay nâng đỡ, khiến cho kẻ ấy từ đó về sau có thể hiểu suốt tất cả sách vở thế gian, thông đạt các điển tịch Vi Đà (31) và tất cả pháp thuật ngoại đạo. Chúng sanh nào tụng trì thần chú này, có thể trị lành tám muôn bốn ngàn thứ bịnh ở thế gian, hàng phục các thiên ma, ngoại đạo, sai khiến được tất cả quỷ thần. Những kẻ tụng kinh tọa thiền ở nơi non sâu, đồng vắng, bị sơn tinh, tạp mị, các quỉ vọng lượng làm não loạn phá hoại, khiến cho tâm không an định, chỉ cần tụng chú này một biến, các quỉ thần ấy thảy đều bị trói. Nếu hành giả có thể tụng trì đúng pháp, khởi lòng thương xót tất cả chúng sanh, lúc ấy ta sẽ sắc cho tất cả thiện thần, long vương, kim cang mật tích thường theo ủng hộ, không rời bên mình, như giữ gìn tròng con mắt hoặc thân mạng của chính họ. 

Tiếp đó, Bồ Tát liền đọc lời kệ sắc lệnh rằng:

Ta sai Mật Tích, Kim Cang Sĩ (32) 
Ô sô quân đồ ương câu thi (33), 
Bát bộ lực sĩ, Thưởng ca la (34), 
Thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Ma Hê Na La Diên (35), 
Kim Tỳ La Đà Ca Tỳ La (36) 
thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Bà Cấp Ta Lâu La (37), 
Mãn Thiện Xa Bát Chân Đà La (38), 
thường theo ủng hộ bên hành giả 
Ta sai Tát Giá Ma Hòa La (39), 
Cưu La Đơn Tra Bán Chỉ La (40), 
thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Tất Bà Dà La Vương (41), 
Ưng Đức Tỳ La Tát Hòa La (42), 
thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Phạm Ma Tam Bát La (43), 
Ngũ Bộ Tịnh Cư Diêm Ma La (44), 
thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Thích Vương Tam Thập Tam (45), 
Đại Biện Công Đức Bà Đát Na (46), 
Thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Đề Đầu Lại Tra Vương, 
Các thần Mẫu nữ, chúng Đại Lực (47), 
thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Tỳ Lâu Lặc Xoa Vương (48), 
Tỳ Lâu Bác Xoa, Tỳ Sa Môn (49), 
thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Kim Sắc Khổng Tước Vương (50), 
28 bộ đại tiên chúng, 
thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Ma Ni Bạt Đà La (51), 
Táng Chi đại tướng, Phất La Bà (52), 
thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Nan Đà, Bạt Nan Đà (53), 
Bà Dà La Long, Y Bát La (54), 
thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Tu La, Càn Thát Bà, 
Ca Lâu, Khẩn Na, Ma Hầu La, 
thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai thủy, hỏa, lôi, điển thần 
Cưu Bàn Trà vương, Tỳ Xá Xà (55), 
thường theo ủng hộ bên hành giả.

Các vị thiện thần này cùng thần long vương, thần Mẫu Nữ đều có 500 đại lực dạ xoa làm quyến thuộc, thường theo ủng hộ ngườI thọ trì thần chú Đại Bi. Nếu ngườI đó ở nơi núi hoang, đồng vắng, ngủ nghỉ một mình, các vị thiện thần ấy thay phiên nhau canh giữ không cho tai ương, chướng nạn phạm đến thân. Nếu hành giả đi trong núi sâu, lạc mất đường về, tụng trì chú này, thiện thần, long vương hóa làm người lành chỉ dẫn lối. Như hành giả trụ nơi núi rừng, đồng vắng, thiếu thốn nước lửa, long thần vì ủng hộ, hóa ra nước, lửa. 

Đức Quán Thế Âm Bồ Tát lại vì ngườI tụng chú, nói bài kệ thanh lương tiêu trừ tai họa rằng:

Hành giả đi trong núi đồng vắng, 
gặp những cọp sói, các thú dữ, 
rắn, rít, tinh mị, quỉ vọng lượng. 
Tụng tâm chú này khỏi bị hại. 
Nếu đi biển cả hoặc sông, hồ, 
những rồng rắn độc, loài Ma Kiệt (56), 
Dạ Xoa, La Sát, cá, rùa lớn 
nghe tụng chú này tự lánh xa. 
Nếu bị quân trận giặc bao vây, 
hoặc gặp người ác đoạt tiền của, 
chí thành xưng tụng chú Đại Bi, 
giặc cướp khởi lòng tự thương xót. 
Nếu bị vua quan, quân sĩ bắt, 
gông, cùm trói buộc, giam ngục tù, 
chí thành xưng tụng chú Đại Bi, 
vua, quan tự mở lòng ân xá. 
Nếu đi vào nhà nuôi sâu độc, 
uống ăn để thuốc muốn hại nhau, 
chí thành xưng tụng chú Đại Bi, 
thuốc độc biến thành nước cam lộ, 
Nữ nhơn bị nạn khi sanh sản, 
khổ vì ma quái làm ngăn cản, 
chí thành xưng tụng chú Đại Bi, 
quỷ tà sợ trốn sanh an ổn, 
Gặp rồng, dịch quỷ gieo hơi độc, 
nóng bức, khổ đau sắp mạng chung, 
chí thành xưng tụng chú Đại Bi, 
bịnh dịch tiêu trừ, mạng trường cữu, 
Rồng, quỉ lưu hành bịnh thũng độc, 
ung sang lở lói nhiều khổ đau, 
chí thành xưng tụng chú Đại Bi, 
khạc ra ba lần hơi độc mất, 
chúng sanh đời trược khởi lòng ác, 
trù ếm hại cho thỏa oán thù, 
chí thành xưng tụng chú Đại Bi, 
liền phản trở lại người trù ếm, 
Chúng sanh cõi trược đời mạt pháp, 
lửa dâm dục thạnh, tâm điên đảo, 
ngoại tình, xa vợ, bỏ chồng con, 
ngày đêm mãi tưởng điều sai quấy, 
nếu hay xưng tụng chú Đại Bi, 
lửa dục tiêu trừ, tâm tà dứt, 
công lực Đại Bi chỉ lược qua, 
nếu ta nói hết không cùng kiếp!

Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát lại bảo Phạm vương rằng: 

Này Phạm vương! Nếu chúng sanh nào muốn tiêu trừ tai nạn ma chướng nên lấy chỉ ngũ sắc xe làm một sợi niệt, trước tiên tụng chú này 5 biến, kế tụng 21 biến, cứ tụng xong mỗI một biến lại thắt một gút, rồi đeo nơi cổ hoặc bỏ nơi đãy. Tâm chú Đại Bi đây do 99 ức hằng sa chư Phật đời quá khứ đã nói ra. Các đức Phật ấy vì thương xót muốn cho người tu hành: công đức lục độ chưa đầy đủ, mau được đầy đủ; mầm bồ đề chưa phát, mau được phát sanh; hàng thanh văn chưa chứng may được chứng quả; các vị thần tiên trong cõi đại thiên chưa phát lòng bồ đề, mau được phát tâm Bồ Đề, nếu chúng sanh nào chưa được tín căn đại thừa, do sức oai thần của đà ra ni này, hột giống đại thừa tự sanh mầm và tăng trưởng, lại do sức từ bi phương tiện của ta, khiến cho sự mong cầu của họ đều được thành tựu. 

Lại nữa, trong tam thiên đại thiên thế giới, những chúng sanh ở nơi ba đường ác, ở chỗ sâu kín tối tăm, nghe thần chú của ta đây, đều được lìa khổ. Các vị Bồ Tát chưa lên bậc sơ trụ, mau được siêu lên, cho đến mau chứng ngôi thập trụ. Mau đến quả vị Phật, thành tựu 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp tùy hình. Nếu hàng Thanh văn một phen được nghe qua chú này, hoặc biên chép, tu hành môn đà ra ni này, dùng tâm chất trực như pháp mà trụ, thì 4 quả sa môn không cầu tự được. Công lực của thần chú này có thể khiến cho nước sông, hồ, biển cả trong cõi đại thiên dâng trào, vách đá, núi nhỏ, núi thiết vi và núi Tu Di thảy đều rung động, lại có thể làm cho tan nát như bụi nhỏ, những chúng sanh ở trong ấy đều phát tâm Bồ Đề. 

Nếu chúng sanh nào trong đời hiện tại muốn mong cầu việc chi,nên giữ trai giới nghiêm sạch trong 21 ngày và tụng trì chú Đại Bi, tất đều được toại nguyện. Nếu thường chí tâm trì tụng, thì từ kiếp sống chết này đến kiếp sống chết khác, tất cả các nghiệp ác đều mau tiêu diệt. Tất cả chư Phật, Bồ Tát, Phạm Thiên, Đế Thích, Tứ thiên vương, thần, tiên, long vương, thảy đều chứng biết cho. Hàng trời, người nào thường thọ trì tâm chú này như tắm gội trong sông, hồ, biển cả, nếu những chúng sanh ở trong đó được nước tắm gội của người này dính vào thân thì bao nhiêu nghiệp nặng tội ác thảy đều tiêu diệt, liền được siêu sinh về tha phương Tịnh Độ, hóa sanh nơi hoa sen, không còn thọ thân thai, noãn, thấp nữa. Các chúng sanh ấy chỉ nhờ chút ảnh hưởng mà còn được như thế, huống chi là chính người trì tụng? Và, như người tụng chú đi nơi đường, có ngọn gió thổi qua mình, nếu những chúng sanh ở sau được ngọn gió của kẻ ấy lướt qua y phục thì tất cả nghiệp ác, chướng nặng thảy đều tiêu diệt, không còn đọa vào tam đồ, thường sanh ở trước chư Phật, cho nên, phải biết quả báo phước đức của người trì tụng chú thật không thể nghĩ bàn! 

Lại nữa, người trì tụng đà ra ni này, khi thốt ra lời nói chi, hoặc thiện hoặc ác, tất cả thiên ma ngoại đạo, thiên, long, quỷ thần đều nghe thành tiếng pháp âm thanh tịnh, đối với người ấy khởi lòng cung kính, tôn trọng như Phật. 

Người nào trì tụng đà ra ni này nên biết người ấy chính là tạng Phật thân, vì 99 ức hằng hà sa chư Phật đều yêu quý. Nên biết người ấy chính là tạng quang minh, vì ánh sáng của tất cả Như Lai đều chiếu đến nơi mình. Nên biết người ấy chính là tạng từ bi, vì thường dùng đà ra ni cứu độ chúng sanh. Nên biết người ấy chính là tạng diệu pháp, vì nhiếp hết tất cả các môn các môn đà ra ni. Nên biết người ấy chính là tạng thiền địnhvì trăm ngàn tam muội thảy đều hiện tiền. Nên biết người ấy chính là tạng hư không, vì hằng dùng không huệ quán sát chúng sanh. Nên biết người ấy chính là tạng vô úy vì thiên, long, thiện thần thường theo hộ trì. Nên biết người ấy chính là tạng diệu ngữ vì tiếng đà ra ni trong miệng tuôn ra bất tuyệt. Nên biết người ấy chính là tạng thường trụ vì tam tai, ác kiếp (57) không thể làm hại. Nên biết người ấy chính là tạng giải thoát vì thiên ma ngoại đạo không thể bức hại. Nên biết người ấy chính là tạng dược vương vì thường dùng đà ra ni trị bịnh chúng sanh.Nên biết người ấy chính là tạng thần thông vì được tự tại dạo chơi nơi 10 phương cõi Phật. Công đức người ấy khen ngợi không thể cùng! 

Đức Phật bảo Phạm vương: 

- Này thiện nam tử! Nếu kẻ nào chán sự khổ ở thế gian muốn cầu thuốc trường sanh, thì nên an trụ nơi chỗ vắng lặng sạch sẽ, kiết giới thanh tịnh và thật hành một trong các phương pháp như sau: Hoặc tụng chú vào trong áo mà mặc, hoặc tụng chú vào nước uống, thức ăn, chất thơm, dược phẩm mà dùng. Nên nhớ mỗi thứ đều tụng 108 biến, tất sẽ được sống lâu. Nếu có thể kiết giới đúng pháp, và y n

hư pháp mà thọ trì, thì mọi việc đều thành tựu. 

Phép kiết giới như thế nào? Hoặc tụng chú vào lưỡi dao sạch, rạch đất xung quanh làm giới hạn. Hoặc tụng chú vào nước sạch, rảy 4 phương làm giới hạn. Hoặc tụng chú vào hột cải trắng, liệng ra bốn phía làm giới hạn. Hay dùng tâm tưởng đến chỗ nào thì chỗ đó là giới hạn. Hoặc tụng chú vào tro sạch, rải xung quanh làm giới hạn. Hoặc tụng chú vào chỉ ngũ sắc, treo vây bốn bên làm giới hạn. Mấy phương pháp trên đây, dùng cách nào cũng được. Nên nhớ mỗi thứ đều phải tụng cho đủ 21 biến. Nếu tụng trì đúng pháp, tự nhiên sẽ được hiệu quả. 

Này thiện nam tử! Chúng sanh nào nghe danh tự của môn đà ra ni này còn được tiêu diệt tội nặng sanh tử trong vô lượng kiếp, huống chi là tụng trì? Nếu người nào được thần chú này mà tụng trì, phải biết kẻ ấy đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, gieo nhiều căn lành. Nếu kẻ nào tụng trì đúng pháp nên biết người ấy là bậc có đủ tâm đại bi, không bao lâu nữa sẽ thành Phật. Cho nên, hành giả khi thấy mọi loài, đều nên vì chúng tụng trì chú này, khiến cho chúng được nghe để cùng gây nhân Bồ Đề, thì sẽ được vô lượng, vô biên công đức. 

Nếu kẻ hành trì khéo giữ gìn trai giới, dụng tâm tinh thành, vì tất cả chúng sanh sám hối nghiệp ác đời trước tự mình cũng sám hối những ác nghiệp đã gây ra từ vô lượng kiếp đến nay, nơi miệng rành rẽ tụng đà ra ni này tiếng tăm liên tiếp không dứt, thì trong đời hiện tại liền chứng được bốn đạo quả của bậc Sa Môn. Nếu là hạng lợi căn, có phương tiện huệ quán thì quả vị thập địa còn chứng được không lấy gì làm khó, huống gì là những phước báo nhỏ nhặt ở thế gian. Những việc như thế, nếu có mong cầu, đều được toại nguyện. 

- Này thiện nam tử! Nếu người nào muốn sai khiến quỷ, thì tìm một chiếc xương sọ của kẻ qua đời, đem về rửa sạch. Kế đó lập đàn tràng để chiếc xương ấy trước tượng Thiên Nhãn, chí tâm tụng chú, mỗi ngày đều dùng hương hoa, cùng các thứ ăn uống cúng tế vong linh, đúng 7 ngày như thế, quỷ sẽ hiện thân, tùy theo mạng lịnh của người ấy sai bảo. 

Như hành nhơn muốn sai khiến Tứ Thiên Vương, thì tụng chú này vào gỗ đàn hương rồi đốt lên, sẽ thấy hiệu quả. Sở dĩ được như thế cũng là do nguyện lực đại từ bi của Quán Thế Âm Bồ Tát sâu nặng, lại cũng do oai thần rộng lớn của đà ra ni này. 

Đức Phật lại gọi ngài A Nan mà bảo: 

- Này A Nan! Khi trong một nước có tai nạn nổi lên nếu muốn được an ổn, vị quốc vương ở xứ ấy phải biết dùng chánh pháp trị dân, có độ lượng khoan hồng, không làm oan uổng trăm họ, tha kẻ tù phạm, và giữ thân tâm tinh tấn đọc tụng chú này. Hành trì như thế luôn 7 ngày đêm thì trong cõi nước ấy tất cả tai nạn thảy đều tiêu tan, ngũ cốc phong thạnh, dân chúng được an vui. 

Lại trong một xứ, nếu gặp những tai ương dồn dập như: bị nước nghịch đem binh xâm lấn, dân tình rối loạn không yên, quan đại thần mưu phản, bịnh dịch lưu hành, mưa nắng trái thời hoặc nhựt, nguyệt sai độ v.v... Muốn diệt các thứ tai nạn như thế ấy, vị quốc vương phải lập đàn tràng, tạo tượng Thiên Nhãn Đại Bi để day mặt về phương Tây, sắm các thứ hương, hoa, tràng phan, bảo cái, hoặc trăm thức ăn uống mà cúng dường, rồi dùng thân tâm tinh tấn, đọc tụng chương cú thần diệu. Hành trì như thế đúng 7 ngày thì nước giặc quy hàng, chánh tình yên ổn, lân bang hòa hảo, thương mến lẫn nhau, trong triều từ vương tử cho đến trăm quan đều hết dạ trung thành, nơi cung vi, phi tần, thể nữ khởi lòng hiếu kính đối với vua, các thiên, long, quỷ thần đều ủng hộ trong nước khiến cho mưa gió thuận hòa, hoa quả tốt, nhân dân vui đẹp. 

Lại nếu trong nhà có những tai nạn như ma quái nổi dậy, quyến thuộc đau nặng, tiền của hao mòn, gia đình rối loạn, người ác gieo tiếng thị phi hoặc vu khống để hãm hại, cho đến trong ngoài lớn nhỏ chẳng hòa thuận nhau. Muốn diệt những tai nạn ấy, gia chủ phải lập đàn tràng, hướng về tượng Thiên Nhãn, chí tâm niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát và tụng đà ra ni này đủ ngàn biến, thì tất cả việc xấu như trên thảy đều tiêu diệt, gia đình được vĩnh viễn an vui. 

Ngài A Nan lại bạch Phật rằng: 

- Bạch đức Thế Tôn! Chú này tên gọi là chi? Con nên thọ trì như thế nào? 

Đức Phật bảo: - Thần chú này có những tên như sau: 

1. Quảng đại viên mãn đà ra ni. 
2. Vô ngại đại bi đà ra ni. 
3. Cứu khổ đà ra ni. 
4. Diên thọ đà rani. 
5. Diệt ác thú đà ra ni. 
6. Phá ác nghiệp chướng đà rani. 
7. Mãn nguyện đà ra ni. 
8.Tùy tâm tự tại đà ra ni. 
9. Tốc siêu thánh địa đà ra ni. 

Ông nên y như thế mà thọ trì. 

 

PHẦN CHÚ THÍCH

 

(20) Thần chú: thần có nghĩa là linh thông, Chú có nghĩa là chúc nguyện, về thể gọI là đà ra ni, về dụng gọI là chú. 

(21) Đất rung động 6 cách: 1. Phương đông nổi, phuơng tây chìm 2. Phương tây nổi, phương đông chìm 3. Phương nam nổi, phương bắc chìm 4. Phương nam chìm phương bắc nổi 5. Bốn phương nổi, chính giữa chìm 6. Chính giữa nổi, 4 phương chìm.

(22) Sanh tử vi tế: cũng gọI là biến dịch sinh tử. Đây là ước theo nghĩa vô minh tiêu gọi là tử, pháp thân hiện gọI là sanh, chứ không phải như tướng sống chết của vật loại. Vì sự sanh diệt này rất nhỏ nhiệm, không phải phàm tình biết được. Nên gọi là vi tế. 

(23) Tỳ khưu, tì khưu ni (Bhiksu, Bhiksuni) ngườI xuất gia khi đã thọ cụ túc giớI thì nam gọI là Tì khưu, nữ gọI là tỳ khưu ni. Danh từ này có nhiều nghĩa, nhưng lối dịch chánh là khất sĩ. Khất sĩ nghĩa là trên xin chánh pháp để dưỡng tánh huệ, dướI xin thực phẩm để nuôi sắc thân. Ưu Bà tắc, ưu bà di (upàsaka, upasika) dịch là cận sự nam, cận sự nữ, đây là hàng đệ tử nam nữ của Phật sau khi thọ tam quy ngũ giớI mớI có danh từ trên. Cận sự là gần gũi phụng sự ngôi Tam bảo. 

(24) A Di Đà (Amita) dịch là vô lượng thọ hoặc vô lượng quang, có nghĩa là đấng có mạng sống, và ánh sáng không lường. Đây là tôn hiệu của đức Phật ở về thế giới Cực Lạc ở phương Tây. 

(25) Tam muộI, biện tài. Tam muộI (samadhi) dịch là chánh định, có nghĩa tâm định ở một chỗ không xao động. Biện tài: tài biện luận. 

(26) Của thường trụ: của nhà chùa. Vì của này không được phép bán, hay dờI đi đâu, thường ở một chỗ, nên gọI là thường trụ. 

(27) TộI thập ác, ngũ nghịch: Thập ác là sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói lờI thô ác, tham lam, giận hờn, si mê, tà kiến. Ngũ nghịch là: làm cho thân Phật ra máu, giết cha, giết mẹ, giết bậc hòa thượng a xà lê, phá sự hòa hợp của tăng chúng. 

(28) Tăng kỳ (Samghika) dịch là Chúng số (số đông). Của tăng kỳ tức là của thường trụ, của chung của số đông tăng chúng. 

(29) Phạm hạnh: Hạnh thanh tịnh, xa lìa dâm dục. 

(30) Tu Đà Hoàn (Srotàpanna phala), dịch là Nhập Lưu, có nghĩa là bậc đã vào dòng thánh. Tu Đà hàm (sakrdàgàmi), dịch là Nhứt Lai, có nghĩa là bậc một phen trở lại cõi trần mớI siêu thoát luân hồi. A Na Hàm (anàgàmi) dịch là bất lai, có nghĩa là không còn trở lại dục giớI nữa, quả vị này sanh ngay lên cõi trờI Ngũ Bất Hoàn, tu cho đến khi chứng quả A La hán. 

(31) Vi đà (Vedà) dịch là minh trí, kinh điển của hàng bà la môn, có 4 loại: loại dạy phép dưỡng sanh, loại cúng tế cầu nguyện, loại bói toán và loại phù chú. 

(32) Mật tích Kim cang sĩ: thiên thần cầm kim cang xử theo ủng hộ Phật. GọI là mật tích vì thần này thường theo Phật nghe những sự tích bản thệ bí mật, hoặc các vị này do Phật, Bồ Tát thị hiện làm thần, tung tích rất bí mật, chúng sanh không biết. 

(33) Ô Sô quân đồ ương câu thi (Ucchusma angùsa) Ô sô quân đồ cũng gọI là Ô Sô Sa Ma, dịch là Uế Tích Kim Cang, Ương câu thi: có nghĩa là Phúc Câu, tên một thứ vũ khí hình như cái móc. Đây là tên của một vị Minh vương thần, có công đức chuyển uế thành tịnh, vị thần này và đầu chân lông đều phun ra lửa, mặt mày phẫn nộ, có bốn cánh tay cầm những thứ vũ khí: gươm, dây roi, xoa hoặc khúc câu. 

(34) Bát bộ lực sĩ, Thưởng Ca La: bát bộ lực sĩ chính là thiên long bát bộ. Thưởng Ca La (Sankara) dịch là Cốt Tỏa Thiên, đây chính là tên vị thiên thần bộ thuộc của đức Quán Âm, thống lãnh bát bộ. 

(35) Ma Hê Na La Diên (Mahésvara Nàràyana): Ma hê gọI cho đủ là Ma Hê Thủ La, có nghĩa Đại Tự Tại, dịch là lực sĩ hoặc Kiên cố. Đây là tên vị thiên thần rất hùng mãnh, có 3 con mắt, 8 cánh tay, ở cõi Sắc Cứu Cánh. 

(36) Kim Tỳ La Đá Ca Tỳ La: gọI tắt là Kim Tỳ La Đà (Kumbhirabà) dịch là Oai Như Vương, thân hình sắc trắng hồng, tay trái cầm bảo cung, tay mặt cầm bảo tiễn 

(37) Bà Cấp Ta Lâu La: Ta Lâu La cũng gọI là Ca Lâu La, đây chỉ cho vị thần thống lãnh loài Kim Súy Điểu. 

(38) Mãn Thiện Xa Bát Chân Đà La: Chân Đà La tức Khẩn Na La, đây là chỉ cho tên vị thần thống lãnh loài Nhơn Phi Nhơn. 

(39) Tát Giá Ma hòa La: Ma Hòa La cũng gọI Ma Dà La (Makara) tức là cá Ma Kiệt, loài cá này rất lớn, cơ thể dài đến 700 do tuần. Đây là tên chỉ cho vị thần thống lãnh loài cá Ma Kiệt. 

(40) Cưu Lan Đơn Trà Bán Chỉ La: cũng gọI là Bán Chỉ Ca (panika), tức là vị đại thần đứng vào hàng thứ ba tronghàng 8 vị dược xoa đại tướng. 

(41) Tất bà già la vương: tức là thọ thần vương, vị thần làm chủ các loài cây. 

(42) Ứng Đức Tì La Tát Hòa La: dịch là Hoan hỉ thần. 

(43) Phạm Ma Tam Bát La: tức là Phạm Thiên vương. 

(44) Ngũ Bộ Tịnh Cư Diêm Ma La: gọI tắt là Diêm ma thiên (suyàmadeva), vị thiên tử quyết đoán những nghiệp lành dữ của chúng sanh. 

(45) Thích Vương Tam thập tam: tức là trờI Đế Thích ở cõi trờI Đao LợI, làm chủ 33 cung trờI, đây là chỉ cho vị Đế Thích cùng 32 vị thiên chủ tùy thuộc. 

(46) Đại Biện Công Đức Bà Đát Na: Bà Đát Na dịch là Tăng Ích, đây là chỉ cho Đại Biện Tài Thiên vương. 

(47) Thần Mẫu Nữ, chúng đại lực: tức là thần Quỉ Tử Mẫu, thống lãnh đại lực dạ xoa. 

(48) Tỳ Lâu Lặc Xoa vương (Virùdhaka): Tăng trưởng thiên vương. 

(49) Tỳ Lâu Bác Xoa Tỳ Sa Môn, gọI tắt là Tỳ Sa Môn (Vairasana) tức Đa Văn Thiên Vương. 

(50) Kim Sắc Khổng Tước Vương: tên một vị thần thân mình sắc vàng rực, tay tả cầm phướng báu, trên báu có chim khổng tước (chim công). 

(51) Ma Ni Bạt Đà La (Manibhadra) tức Bảo Hiền, một trong 8 vị dược xoa đại tướng. 

(52) Táng Chi Đại tướng, Phất La Bà: cũng gọI là Phất Bà La Ha (Puspàraha) dịch là Thực Hoa, một trong 8 vị dược xoa đại tướng. 

(53) Nan Đà, Bạt Nan Đà (Nanda, Upananda): dịch là Hoan Hỉ, Thiện Hoan Hỉ. Tên của 2 vị long vương huynh đệ, Nan Đà là rồng lớn, Bạt Nan Đà là rồng nhỏ. Hai vị long vương này mỗI vị đều có 7 đầu, tay hữu cầm đao, tay tả cầm dây. 

(54) Bà Già La Long Y Bát La: Bà Già La dịch là Hàm Hải Long Vương, Y Bát La dịch là Hương Diệp long vương, mình rồng đầu voi. 

(55) Cưu Bàn Trà vương, Tỳ xá xà: Cưu Bàn Trà (Kumbhànda) dịch là Yểm Mị Quỷ, Tỳ Xá Xà (Pisàca) dịch là Đạm Tinh Khí Quỷ. œây là 2 loại quỉ vương trong bát bộ quỉ thần. 

(56) Ma kiệt: loại cá lớn, dài từ 300 đến 700 do tuần. 

(57) Tam tai ác kiếp: Tam tai là hỏa tai, thủy tai, phong tai. Ác kiếp có nghĩa là kiếp khổ sở, độc dữ. Khi thế giớI này sắp tiêu tan, hỏa tai làm hoại từ địa ngục đến cõi sơ thiền, thủy tai làm hoại đến cõi nhị thiền, phong tai làm hoại đến cõi tam thiền. 


Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Ðại Viên Mãn Vô Ngại Ðại Bi Tâm Ðà La Ni Kinh

Hán dịch: Ðường, Tây Thiên Trúc, Sa Môn Già Phạm Ðạt Ma

Thiển giảng: Vạn Phật Thánh Thành, Hòa Thượng Tuyên Hóa.

 

Kinh Văn:

 

Âm: PHẬT CÁO TỔNG TRÌ VƯƠNG BỒ TÁT NGÔN: "THIỆN NAM TỬ! NHỮ ÐẲNG ÐƯƠNG TRI, KIM THỬ HỘI TRUNG, HỮU NHẤT BỒ-TÁT MA-HA-TÁT DANH VIẾT QUÁN-THẾ-ÂM TỰ-TẠI, TÙNG VÔ LƯỢNG KIẾP LAI, THÀNH TỰU ÐẠI TỪ ÐẠI BI, THIỆN NĂNG TU TẬP VÔ LƯỢNG ÐÀ-LA-NI MÔN, VI DỤC AN LẠC CHƯ CHÚNG SANH CỐ, MẬT PHÓNG NHƯ THỊ ÐẠI THẦN THÔNG LỰC."

PHẬT THUYẾT THỊ NGỮ DĨ,

Nghĩa: Ðức Phật bảo Tổng Trì Vương Bồ-tát: "Thiện nam tử! Các ông nên biết, trong Pháp hội hôm nay có vị Bồ-tát Ma-ha-tát hiệu là Quán Thế Âm Tự Tại, từ vô lượng kiếp đến nay đã thành tựu tâm đại từ đại bi và khéo tu tập vô lượng pháp môn Ðà-La-Ni, vì muốn chúng sanh được an vui nên mật phóng sức đại thần thông như thế."

Ðức Phật nói những lời ấy xong,

 

Lược Giảng:

Ðức Phật bảo Tổng Trì Vương Bồ-tát: "Thiện nam tử! Các ông nên biết, trong Pháp hội hôm nay có vị Bồ-tát Ma-ha-tát hiệu là Quán Thế Âm Tự Tại. Hiện trong đại hội này có một vị Ðại Bồ-tát tên là Quán Thế Âm và là một vị Bồ-tát rất tự tại. Vị Bồ-tát này từ vô lượng kiếp đến nay đã thành tựu tâm đại từ đại bi, công đức đại từ đại bi, và khéo tu tập vô lượng pháp môn Ðà-La-Ni, vì muốn chúng sanh được an vui nên mật phóng sức đại thần thông như thế." Chính vì muốn làm cho tất cả chúng sanh đều được bình yên, vui vẻ, nên Bồ-tát Quán Thế Âm đã bí mật phóng ánh sáng đại quang minh, phô diễn sức đại thần thông như thế.

 

Ðức Phật nói những lời ấy xong…, ... Sau khi Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nói xong thì thế nào?

  

Kinh Văn:

 

Âm: NHĨ THỜI QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT TÙNG TÒA NHI KHỞI, CHỈNH LÝ Y PHỤC, HƯỚNG PHẬT HỢP CHƯỞNG, BẠCH PHẬT NGÔN: "THẾ TÔN! NGÃ HỮU ÐẠI BI TÂM ÐÀ-LA-NI CHÚ, KIM ÐƯƠNG DỤC THUYẾT, VI CHƯ CHÚNG SANH ÐẮC AN LẠC CỐ, TRỪ NHẤT THIẾT BỆNH CỐ, ÐẮC THỌ MẠNG CỐ, ÐẮC PHÚ NHIÊU CỐ, DIỆT TRỪ NHẤT THIẾT ÁC NGHIỆP TRỌNG TỘI CỐ, LY CHƯỚNG NẠN CỐ, TĂNG TRƯỞNG NHẤT THIẾT BẠCH PHÁP CHƯ CÔNG ÐỨC CỐ, THÀNH TỰU NHẤT THIẾT CHƯ THIỆN CĂN CỐ, VIỄN LY NHẤT THIẾT CHƯ BỐ ÚY CỐ, TỐC NĂNG MÃN TÚC NHẤT THIẾT CHƯ HY CẦU CỐ, DUY NGUYỆN THẾ-TÔN TỪ AI THÍNH HỨA."

Nghĩa: Ngay lúc đó, Quán Thế Âm Bồ-tát từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục cho chỉnh tề, rồi chắp tay hướng về Ðức Phật và bạch với Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Con có Chú Ðại Bi Tâm Ðà-La-Ni, nay xin nói ra là vì muốn cho chư chúng sanh được an lạc, được trừ tất cả các bệnh, được thọ mạng dài lâu, được giàu có sung túc, được dứt trừ tất cả ác nghiệp trọng tội, được xa lìa chướng nạn, được tăng trưởng tất cả các công đức bạch pháp, được thành tựu tất cả các thiện căn, được xa lìa tất cả sự sợ hãi, được mau có đủ tất cả những thứ mong cầu. Cúi xin Ðức Thế Tôn từ bi hứa khả cho."

 

Lược Giảng:

Ngay lúc đó, Quán Thế Âm Bồ-tát từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục cho chỉnh tề, rồi chắp tay hướng về Ðức Phật và bạch với Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Con có Chú Ðại Bi Tâm Ðà-La-Ni. Con có một thần chú tên là Ðại Bi Tâm Ðà-La-Ni Thần Chú và nay xin nói ra là vì muốn cho chư chúng sanh được an lạc. Con nói ra Thần Chú Ðại Bi này để làm cho hết thảy chúng sanh đều được vui vẻ, an ổn, không gặp nguy hiểm, không bị đe dọa, khủng bố; và được trừ tất cả các bệnh, bất cứ bệnh gì cũng có thể giải trừ được cả.

 

"Ðược thọ mạng dài lâu. Có người nếu trì tụng Chú Ðại Bi thì được phước báo trường thọ, được giàu có sung túc, tiền của dồi dào, được dứt trừ tất cả ác nghiệp trọng tội." Quý vị xem, Chú Ðại Bi có công năng diệt trừ hết thảy ác nghiệp của tất cả chúng sanh. "Ác nghiệp" tức là bao gồm luôn cả các tội thuộc Ngũ Nghịch, Thập Ác. Cho nên, những nghiệp tội nghiêm trọng nhất, nặng nhất, đều có thể tiêu tan.

 

"Ðược xa lìa chướng nạn, thoát khỏi mọi ma chướng, khó khăn, được tăng trưởng tất cả các công đức bạch pháp." "Bạch pháp" (pháp trắng) tức là thanh tịnh pháp—thứ pháp trong sạch, không nhiễm ô. Pháp nhiễm ô tức là "hắc pháp" (pháp đen); còn không nhiễm ô thì gọi là "bạch pháp." "Công đức bạch pháp" có nghĩa là công đức thanh tịnh.

 

"Ðược thành tựu tất cả các thiện căn." Chú Ðại Bi còn có công năng khiến cho hết thảy căn lành đều được thành tựu.

 

"Ðược xa lìa tất cả sự sợ hãi." Nếu quý vị nào sợ đi máy bay thì hãy trì niệm Chú Ðại Bi, bởi như thế sẽ giúp quý vị không còn sợ hãi nữa.

 

"Ðược mau có đủ tất cả những thứ mong cầu." Chú Ðại Bi lại có thể giúp cho quý vị được mãn nguyện, khiến cho những hy vọng, ước muốn của quý vị đều được thành tựu một cách mau chóng.

 

"Cúi xin Ðức Thế Tôn từ bi hứa khả cho. Con nay thỉnh cầu Ðức Thế Tôn phê chuẩn sự thỉnh cầu của con, từ bi cho phép con tuyên thuyết Chú Ðại Bi cho đại chúng cùng nghe!"

  

Kinh Văn:

 

Âm: PHẬT NGÔN: "THIỆN NAM TỬ! NHỮ ÐẠI TỪ BI, AN LẠC CHÚNG SANH, DỤC THUYẾT THẦN CHÚ, KIM CHÁNH THỊ THỜI, NGHI ƯNG TỐC THUYẾT, NHƯ LAI TÙY HỶ, CHƯ PHẬT DIỆC NHIÊN."

Nghĩa: Ðức Phật dạy: "Thiện nam tử! Ông thật đại từ bi, vì sự an lạc của chúng sanh nên muốn tuyên thuyết thần chú. Nay chính là lúc ấy, vậy ông hãy mau nói ra. Như Lai tùy hỷ, và chư Phật cũng thế!"

 

Lược Giảng:

Ðức Phật dạy: "Thiện nam tử! Ông thật đại từ bi." Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nghe Bồ-tát Quán Thế Âm thỉnh cầu, muốn được tuyên thuyết Ðại Bi Chú, bèn trả lời rằng: "Quán Thế Âm ơi, lòng từ bi của ông thật là quảng đại một cách phi thường, vì sự an lạc của chúng sanh nên muốn tuyên thuyết thần chú. Ông hằng ao ước được nói ra Ðại Bi Thần Chú, thì nay chính là lúc ấy. Bây giờ chính là thời điểm thích hợp để tuyên thuyết Chú Ðại Bi, vậy ông hãy mau nói ra. Như Lai tùy hỷ, và chư Phật cũng thế! Chẳng những Ta, Như Lai, tùy hỷ theo công đức của ông, mà cả mười phương chư Phật thảy đều tùy hỷ tán thán công đức đó."

  

Kinh Văn:

 

Âm: QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT TRÙNG BẠCH PHẬT NGÔN: "THẾ TÔN! NGÃ NIỆM QUÁ KHỨ VÔ LƯỢNG ỨC KIẾP, HỮU PHẬT XUẤT THẾ DANH VIẾT THIÊN QUANG VƯƠNG TĨNH TRỤ NHƯ LAI. BỈ PHẬT THẾ TÔN, LÂN NIỆM NGÃ CỐ, CẬP VI NHẤT THIẾT CHƯ CHÚNG SANH CỐ, THUYẾT THỬ QUẢNG ÐẠI VIÊN MÃN VÔ NGẠI ÐẠI BI TÂM ÐÀ-LA-NI, DĨ KIM SẮC THỦ, MA NGÃ ÐẢNH THƯỢNG, TÁC NHƯ THỊ NGÔN:

Nghĩa: Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Con nhớ vô lượng ức kiếp về trước, có đức Phật ra đời hiệu là Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai. Ðức Phật Thế Tôn ấy vì thương nghĩ đến con cùng tất cả chúng sanh, nên đã tuyên thuyết Quảng Ðại Viên Mãn Vô Ngại Ðại Bi Tâm Ðà-La-Ni này, lại dùng tay kim sắc xoa đảnh đầu con và dạy lời như vầy:

 

Lược Giảng:

Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Con nhớ vô lượng ức kiếp về trước" "Vô lượng ức kiếp" tức là vô lượng vô biên, không biết rõ được là bao nhiêu kiếp, không cách nào tính ra được con số cụ thể.

Quán Thế Âm Bồ-tát nhớ lại một sự việc trong đời quá khứ, xảy ra từ vô lượng kiếp về trước. Vào thuở ấy, "có đức Phật ra đời hiệu là Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai. Bấy giờ, Ðức Phật Thế Tôn ấy, tức là Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai, vì thương nghĩ đến con cùng tất cả chúng sanh, nên đã tuyên thuyết Quảng Ðại Viên Mãn Vô Ngại Ðại Bi Tâm Ðà-La-Ni này."

Rồi Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai "lại dùng tay kim sắc xoa đảnh đầu con—Quán Thế Âm Bồ-tát—và dạy lời như vầy:"

 

Kinh Văn:

 

Âm: "‘THIỆN NAM TỬ! NHỮ ÐƯƠNG TRÌ THỬ TÂM CHÚ, PHỔ VI VỊ LAI ÁC THẾ NHẤT THIẾT CHÚNG SANH, TÁC ÐẠI LỢI LẠC.’

NGÃ Ư THỊ THỜI. THỦY TRỤ SƠ ÐỊA, NHẤT VĂN THỬ CHÚ CỐ, SIÊU ÐỆ BÁT ÐỊA, NGÃ THỜI TÂM HOAN HỶ CỐ, TỨC PHÁT THỆ NGÔN:"

Nghĩa: ‘Thiện nam tử! Ông nên thọ trì tâm chú này, vì khắp tất cả chúng sanh trong đời ác ở thời vị lai mà làm sự đại lợi lạc.’

Con lúc đó mới đang ở Sơ Ðịa, vừa nghe xong Chú này thì liền vượt lên Bát Ðịa. Bấy giờ, trong lòng hoan hỷ, con lập tức phát lời thệ nguyện:

 

Lược Giảng:

‘Thiện nam tử! Ông nên thọ trì tâm chú này.’ Thuở ấy, Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai dặn dò Quán Thế Âm Bồ-tát rằng: "Này Thiện nam tử, ông cần phải thọ trì tâm chú này. Tâm chú nào ư? Ðó là Ðại Bi Tâm Chú, hay cũng gọi là Ðại Bi Tâm Ðà-La-Ni. Và ông hãy vì khắp tất cả chúng sanh trong đời ác ở thời vị lai mà làm sự đại lợi lạc. Ông nên làm cho hết thảy chúng sanh ở đời sau đều được hưởng sự lợi ích và được an vui."

 

"Con lúc đó mới đang ở Sơ Ðịa." Sơ Ðịa có tên là gì? Ðó là Hoan-hỷ Ðịa.

Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ-tát chỉ mới chứng đắc Sơ Ðịa; thế nhưng Ngài "vừa nghe xong Chú này—tức là Chú Ðại Bithì liền vượt lên Bát Ðịa." Như thế tức là từ Sơ Ðịa, Quán Thế Âm Bồ-tát đã vượt qua Nhị Ðịa, Tam Ðịa, Tứ Ðịa, Ngũ Ðịa, Lục Ðịa, Thất Ðịa, tiến thẳng đến Bát Ðịa.

 

"Bấy giờ, do trong lòng hoan hỷ, con lập tức phát lời thệ nguyện:" Phát thệ nguyện gì?

  

Kinh Văn:

 

Âm: ‘NHƯỢC NGÃ ÐƯƠNG LAI, KHAM NĂNG LỢI ÍCH AN LẠC NHẤT THIẾT CHÚNG SANH GIẢ, LINH NGÃ TỨC THỜI THÂN SANH THIÊN THỦ THIÊN NHÃN CỤ TÚC!’

PHÁT THỊ NGUYỆN DĨ, ƯNG THỜI THÂN THƯỢNG THIÊN THỦ THIÊN NHÃN TẤT GIAI CỤ TÚC, THẬP PHƯƠNG ÐẠI ÐỊA LỤC CHỦNG CHẤN ÐỘNG, THẬP PHƯƠNG THIÊN PHẬT, TẤT PHÓNG QUANG MINH, CHIẾU XÚC NGÃ THÂN, CẬP CHIẾU THẬP PHƯƠNG VÔ BIÊN THẾ GIỚI.

Nghĩa: ‘Nếu trong đời vị lai tôi có thể làm lợi ích an lạc cho tất cả chúng sanh, thì xin khiến cho thân tôi lập tức sanh đủ ngàn tay ngàn mắt!’

Phát nguyện ấy xong thì trên thân liền ứng thời hiện đủ ngàn tay ngàn mắt. Lúc ấy, mười phương đại địa chấn động sáu cách; ngàn Ðức Phật trong mười phương đều phóng ánh quang minh soi đến thân con, cùng chiếu dọi vô biên thế giới ở khắp mười phương.

 

 

Lược Giảng:

"‘Nếu trong đời vị lai tôi có thể làm lợi ích an lạc cho tất cả chúng sanh, thì xin khiến cho thân tôi lập tức sanh đủ ngàn tay ngàn mắt!’" Trong đời quá khứ ấy, Quán Thế Âm Bồ-tát đã nguyện rằng: "Giả sử trong tương lai, tôi có thể trở nên hữu ích đối với hết thảy chúng sanh, có thể mang lại sự an lạc cho muôn loài, thì tôi hy vọng rằng thần lực của Chú Ðại Bi này hãy khiến cho một ngàn cánh tay và một ngàn con mắt mọc ra đầy đủ nơi nhục thân của tôi ngay tức khắc!"

 

"Phát nguyện ấy xong, sau khi con lập nguyện, thì trên thân liền ứng thời hiện đủ ngàn tay ngàn mắt. Ngay trên nhục thân của con liền hiện ra cả một ngàn cánh tay và một ngàn con mắt trong cùng một lúc."

 

"Lúc ấy, mười phương đại địa chấn động sáu cách." Khắp mười phương thế giới, đại địa rúng động theo sáu cách khác nhau, gọi là "lục chủng chấn động." Ðó chính là 1) Chấn (vang dội); 2) Hống (gào lên); 3) Kích (đánh ra); 4) Ðộng (động cựa); 5) Dũng (phun ra); 6) Khởi (vùng dậy). Chấn, hống, kích là những biến động thuộc về âm thanh; động, dũng, khởi là những biến hóa thuộc về hình thể.

 

Ngàn đức Phật trong mười phương đều phóng ánh quang minh. Từ thế giới của ngàn đức Phật trong mười phương đều đồng thời phóng ra hào quang đại quang minh, hào quang ấy dọi đến thân con, cùng chiếu soi, tỏa ánh sáng rực rỡ tới vô biên thế giới ở khắp mười phương.

  

Kinh Văn:

 

Âm: TÙNG THỊ DĨ HẬU, PHỤC Ư VÔ LƯỢNG PHẬT SỞ, VÔ LƯỢNG HỘI TRUNG, TRÙNG CÁNH ÐẮC VĂN, THÂN THỪA THỌ TRÌ THỊ ÐÀ-LA-NI, PHỤC SANH HOAN HỶ, DŨNG DƯỢC VÔ LƯỢNG, TIỆN ÐẮC SIÊU VIỆT VÔ SỐ ỨC KIẾP VI TẾ SANH TỬ."

Nghĩa: Từ đó về sau, trong vô lượng Phật sở, vô lượng Pháp Hội, con được nghe lại và đích thân nhận lãnh, thọ trì Ðà-La-Ni này, lại sanh hoan hỷ, phấn chấn vô lượng, nên được siêu vượt vi tế sanh tử trong vô số ức kiếp."

 

Lược Giảng:

 

"Từ đó về sau, trong vô lượng Phật sở, vô lượng Pháp Hội, con được nghe lại và đích thân nhận lãnh, thọ trì Ðà-La-Ni này. Kể từ đó, tại vô lượng vô biên cõi nước của Phật cũng như tại vô lượng Pháp hội, con thường được nghe lại Chú Ðại Bi Ðà-La-Ni và tự thân con cũng thọ trì chú tổng trì này. Con lại sanh hoan hỷ, phấn chấn vô lượng. Con mừng rỡ đến nỗi muốn nhảy múa reo vui, nên được siêu vượt vi tế sanh tử1  trong vô số ức kiếp, lại còn được vượt qua biến dị sanh tử vô cùng vi tế trong vô số ức kiếp ở quá khứ?"

 

Kinh Văn:

 

Âm: TÙNG THỊ DĨ LAI THƯỜNG SỞ TỤNG TRÌ, VỊ TẰNG PHẾ VONG. DO TRÌ THỬ CHÚ CỐ, SỞ SANH CHI XỨ, HẰNG TẠI PHẬT TIỀN, LIÊN HOA HÓA SANH, BẤT THỌ THAI TẠNG CHI THÂN.

Nghĩa: Từ ấy đến nay. con thường xuyên trì tụng, chưa từng quên bỏ. Nhờ thọ trì Chú này nên con luôn được sanh ra tại Phật tiền, hóa sanh từ hoa sen, không còn thọ thân thai bào nữa.

  

Lược Giảng:

"Từ ấy đến nay. con thường xuyên trì tụng, chưa từng quên bỏ. Kể từ khi ấy cho đến nay, con vẫn luôn tụng trì Chú Ðại Bi, không một ngày xao lãng. Nhờ thọ trì Chú này nên con luôn được sanh ra tại Phật tiền, vào thời có Phật trụ thế, được hóa sanh từ hoa sen chứ không còn thọ thân thai bào nữa, không còn phải mang thân thể do cha mẹ hoài thai, cưu mang nữa."

 ____________

  1 Có hai loại sanh tử: 1) Phân đoạn sanh tử. Ðây là sự sanh và tử của nhục thân. Các bậc A-la-hán đều đã kết thúc sự sanh tử này; 2) Biến dị sanh tử. Ðây là nói về sự thay đổi, chuyển biến vi tế của dòng tư tưởng. Các bậc Bồ-tát đều đã dứt được cả hai thứ sanh tử này. Ở đây, vi tế sanh tử chính là Biến dị sanh tử.

 

Kinh Văn:

Âm: "NHƯỢC HỮU TỲ KHEO, TỲ KHEO NI, ƯU BÀ TẮC, ƯU BÀ DI, ÐỒNG NAM, ÐỒNG NỮ, DỤC TỤNG TRÌ GIẢ, Ư CHƯ CHÚNG SANH KHỞI TỪ BI TÂM, TIÊN ÐƯƠNG TÙNG NGÃ PHÁT NHƯ THỊ NGUYỆN: ..."

Nghĩa: "Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, đồng nam hay đồng nữ nào muốn trì tụng, thì nên phát khởi lòng từ bi đối với mọi chúng sanh, và trước tiên phải theo con mà phát những thệ nguyện như vầy ..."

 

Lược Giảng:

"Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, đồng nam hay đồng nữ nào muốn trì tụng ..." Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch Phật rằng: "Giả sử có các Thầy hoặc các Sư cô, đã xuất gia, người nam hoặc người nữ còn tại gia, và đồng nam hoặc đồng nữ nào phát tâm muốn trì tụng Chú Ðại Bi, thì nên phát khởi lòng từ bi đối với mọi chúng sanh, và trước tiên phải theo con mà phát những thệ nguyện như vầy ..." Trước hết, vị phát tâm ấy cần phải đối trước Quán Thế Âm Bồ-tát mà lập mười lời thệ nguyện như sau ...

  

Kinh Văn:

Âm:

1) "NAM MÔ ÐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGÃ TỐC TRI NHẤT THIẾT PHÁP;

2) NAM MÔ ÐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGÃ TẢO ÐẮC TRÍ HUỆ NHÃN;

3) NAM MÔ ÐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGÃ TỐC ÐỘ NHẤT THIẾT CHÚNG;

4) NAM MÔ ÐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGÃ TẢO ÐẮC THIỆN PHƯƠNG TIỆN;

5) NAM MÔ ÐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGÃ TỐC THỪA BÁT-NHÃ THUYỀN;

6) NAM MÔ ÐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGÃ TẢO ÐẮC VIỆT KHỔ HẢI;

7) NAM MÔ ÐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGÃ TỐC ÐẮC GIỚI ÐỊNH ÐẠO;

8) NAM MÔ ÐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGÃ TẢO ÐĂNG NIẾT-BÀN SƠN;

9) NAM MÔ ÐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGÃ TỐC HỘI VÔ-VI XÁ;

10) NAM MÔ ÐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGÃ TẢO ÐỒNG PHÁP TÁNH THÂN.

NGÃ NHƯỢC HƯỚNG ÐAO SƠN, ÐAO SƠN TỰ TỒI CHIẾT;

NGÃ NHƯỢC HƯỚNG HỎA THANG, HỎA THANG TỰ KHÔ KIỆT;

NGÃ NHƯỢC HƯỚNG ÐỊA NGỤC, ÐỊA NGỤC TỰ TIÊU DIỆT;

NGÃ NHƯỢC HƯỚNG NGẠ QUỶ, NGẠ QUỶ TỰ BÃO MÃN;

NGÃ NHƯỢC HƯỚNG TU-LA, ÁC TÂM TỰ ÐIỀU PHỤC;

NGÃ NHƯỢC HƯỚNG SÚC SANH, TỰ ÐẮC ÐẠI TRÍ HUỆ."

 

Nghĩa:

 

1) "Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng biết tất cả pháp;

2) Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm được Trí Huệ Nhãn;

3) Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng độ các chúng sanh;

4) Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm được thiện phương tiện;

5) Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng lên thuyền Bát-nhã;

6) Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm vượt qua biển khổ;

7) Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng đắc Giới Ðịnh Ðạo;

8) Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm lên núi Niết-bàn;

9) Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng về nhà Vô-vi;

10) Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm đồng thân Pháp tánh.

Nếu con hướng núi đao, núi đao tự sụp đổ;

Nếu con hướng nước sôi, nước sôi tự khô cạn;

Nếu con hướng địa ngục, địa ngục tự tiêu diệt;

Nếu con hướng ngạ quỷ, ngạ quỷ liền no đủ;

Nếu con hướng Tu-la, ác tâm tự điều phục;

Nếu con hướng súc sanh, liền đắc đại Trí Huệ."

 

Lược Giảng:

Mười lời nguyện đó là:

 

1) "Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng biết tất cả pháp."

"Nam mô" nghĩa là gì? "Nam mô" là tiếng Phạn, và có nghĩa là "quy mạng." Do đó, "Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát" có nghĩa là giao phó tất cả thân tâm, tính mạng của mình cho Quán Thế Âm Bồ-tát.

"Nam mô" lại cũng có nghĩa là "kính đầu," tức là cung kính quy y, cung kính quay về nương tựa. Như vậy, "nam mô Phật" tức là cung kính quay về nương tựa Phật; "nam mô Pháp" là cung kính quay về nương tựa Pháp; "nam mô Tăng" là cung kính quay về nương tựa Tăng; và "nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm" là cung kính quay về nương tựa Ðức Quán Thế Âm Bồ-tát đại từ đại bi.

Sau khi đã quay về nương tựa Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ-tát rồi thì sao nữa? Thì hãy phát nguyện rằng: "Con nguyện chóng biết tất cả pháp. Cầu xin Quán Thế Âm Bồ-tát gia bị, phù hộ cho con được hiểu rõ Phật Pháp một cách nhanh chóng." Ở đây, "biết" (tri) tức là hiểu rõ, hiểu thấu đáo.

 

2) "Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm được Trí Huệ Nhãn." Ở thế gian chúng ta, những người hiện đời có được Ngũ Nhãn, Lục Thông đều là nhờ thuở trước họ đã từng trì tụng Chú Ðại Bi và quy y với Quán Thế Âm Bồ-tát, nên Trí Huệ Nhãn khai mở và họ có được "con mắt trí huệ."

 

3) "Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng độ các chúng sanh." Chúng ta cần "mau biết tất cả pháp, sớm được Trí Huệ Nhãn" để làm gì? Chính là để "chóng độ các chúng sanh."

 

4) "Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm được thiện phương tiện." Muốn độ tất cả chúng sanh thì chúng ta cần phải biết mọi pháp môn phương tiện ngõ hầu có thể tùy theo căn cơ của chúng sanh mà thuyết giảng thứ giáo pháp thích hợp, "tùy bệnh cho thuốc." Do đó, sớm chứng đắc các pháp môn thiện xảo phương tiện là điều rất thiết yếu.

 

5) "Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng lên thuyền Bát-nhã. Con lại quay về nương tựa Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ-tát, và nguyện sẽ chóng được ngồi thuyền trí huệ Bát-nhã."

 

6) "Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm vượt qua biển khổ. Sau khi được lên ngồi trên thuyền trí huệ Bát-nhã rồi, con nguyện sẽ dùng con thuyền này để nhanh chóng vượt thoát biển khổ sanh tử."

 

7) "Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng được Giới Ðịnh Ðạo. Con cung kính quy y Ðức Quán Thế Âm Ðại Từ Ðại Bi, và nguyện sẽ sớm thông đạt được đạo Giới, Ðịnh, Huệ."

 

8) "Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm lên núi Niết-bàn. Sau khi đắc được Giới Ðịnh Ðạo, con nguyện sẽ mau chóng lên được cõi Niết-bàn."

 

9) "Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng về nhà Vô-vi." "Nhà Vô-vi" tức là Vô-vi pháp; do đó, "chóng về nhà Vô-vi" có nghĩa là sớm chứng đắc pháp môn Vô-vi vậy.

 

10) "Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm đồng thân Pháp tánh. Con xin cung kính quay về nương tựa Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ-tát, và nguyện sẽ sớm chứng đắc tự thân của Pháp tánh."

 

"Nếu con hướng núi đao, núi đao tự sụp đổ. Khi niệm Chú Ðại Bi, nếu con quay về hướng núi đao mà niệm, thì núi đao sẽ tự nhiên tan rã, đổ sụp xuống."

 

"Nếu con hướng nước sôi, nước sôi tự khô cạn. Nếu con hướng về địa ngục nước sôi mà niệm Chú Ðại Bi, thì lửa sẽ lụn tắt và nước cũng cạn khô."

 

"Nếu con hướng địa ngục, địa ngục tự tiêu diệt. Nếu con hướng về địa ngục mà niệm Chú Ðại Bi, thì địa ngục sẽ biến thành thiên đường—không còn có địa ngục nữa."

"Nếu con hướng ngạ quỷ, ngạ quỷ liền no đủ. Nếu con hướng về loài ngạ quỷ mà niệm Chú Ðại Bi, thì hết thảy ngạ quỷ đều được no đủ, không còn bị cái khổ đói khát hành hạ nữa."

 

"Nếu con hướng Tu-la, ác tâm tự điều phục. Nếu con hướng về những chúng sanh Tu-la hung ác nhất mà niệm Chú Ðại Bi, thì tâm địa độc ác của loài Tu-la sẽ tự nhiên được điều phục và tất cả đều phát tâm muốn quy y, hướng thiện."

 

"Nếu con hướng súc sanh, liền đắc đại Trí Huệ. Nếu con hướng về những súc sanh ngu muội mà niệm Chú Ðại Bi, thì chúng sẽ có được trí huệ rộng lớn."

 

Kinh Văn:

Âm: "PHÁT THỊ NGUYỆN DĨ, CHÍ TÂM XƯNG NIỆM NGÃ CHI DANH TỰ, DIỆC ƯNG CHUYÊN NIỆM NGÃ BỔN SƯ A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI; NHIÊN HẬU TỨC ÐƯƠNG TỤNG THỬ ÐÀ-LA-NI THẦN CHÚ. NHẤT TÚC TỤNG MÃN NGŨ BIẾN, TRỪ DIỆT THÂN TRUNG BÁCH THIÊN VẠN ỨC KIẾP SANH TỬ TRỌNG TỘI."

Nghĩa: "Phát những nguyện này xong, hãy chí tâm xưng niệm danh hiệu của con và cũng phải chuyên niệm danh hiệu Ðức Bổn Sư của con là Ðức A-Di-Ðà Như Lai; sau đó phải luôn trì tụng Thần Chú Ðà-La-Ni này. Nếu mỗi đêm tụng đủ năm biến thì có thể tiêu trừ được trọng tội trong trăm ngàn muôn ức kiếp sanh tử."

 

Lược Giảng:

Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch cùng Ðức Phật: "Sau khi các chúng sanh phát tâm thọ trì Chú Ðại Bi đã phát những nguyện này xong, hãy chí tâm xưng niệm danh hiệu của con–Quán Thế Âm Bồ-tát."

Quý vị muốn thọ trì Chú Ðại Bi, thì trước tiên, mỗi người phải đối trước Quán Thế Âm Bồ-tát mà lập mười thệ nguyện như trên; rồi kế đến là phải chí tâm xưng niệm danh hiệu của Ngài, tức là Quán Thế Âm Bồ-tát. "Chí tâm" tức là thành tâm thành ý, một lòng một dạ.

 

"Và cũng phải chuyên niệm Ðức Bổn Sư của con. Các chúng sanh đó nếu chỉ niệm danh hiệu của con thôi thì vẫn còn chưa đủ, họ cần phải chuyên tâm trì niệm cả danh hiệu của Bổn Sư của con nữa; Bổn Sư của con là ai ư? Chính là Ðức A-Di-Ðà Như Lai." Bởi "uống nước nhớ nguồn," cho nên chúng ta cần phải biết nghĩ đến Ðức Phật A-Di-Ðà, vốn là Thầy của Quán Thế Âm Bồ-tát tự thuở ban sơ. Do đó, chúng ta cũng cần phải niệm "Nam mô A-Di-Ðà Phật" nữa, chứ không phải chỉ niệm "Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát" mà thôi.

"Sau đó, phải luôn trì tụng Thần Chú Ðà-La-Ni này. Trước hết, các chúng sanh đó phải niệm danh hiệu của con—‘Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát’; rồi tiếp đến là niệm danh hiệu Ðức Bổn Sư của con—‘Nam mô A Di Ðà Phật’; và sau đó mới bắt đầu tụng Thần Chú Ðà-La-Ni. Nếu mỗi đêm tụng đủ năm biến thì có thể tiêu trừ được trọng tội trong trăm ngàn muôn ức kiếp sanh tử."

Mỗi tối, nếu quý vị có thể chuyên cần trì tụng Chú Ðại Bi đủ năm biến, đều đặn như thế, thì có thể khiến cho bao nhiêu nghiệp chướng mà bản thân quý vị trót gây tạo đều được tiêu trừ. "Trọng tội trong trăm ngàn muôn ức kiếp sanh tử" tức là những tội lỗi thâm trọng mà chúng ta đã tạo tác trong quá trình luân hồi luẩn quẩn, sanh rồi chết, chết rồi lại tái sanh, lập đi lập lại mãi trong suốt cả hằng trăm ngàn vạn ức kiếp.

 

Kinh Văn:

Âm: QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT PHỤC BẠCH PHẬT NGÔN: "THẾ TÔN! NHƯỢC CHƯ NHÂN THIÊN TỤNG TRÌ ÐẠI BI CHƯƠNG CÚ GIẢ, LÂM MẠNG CHUNG THỜI, THẬP PHƯƠNG CHƯ PHẬT GIAI LAI THỌ THỦ; DỤC SANH HÀ ÐẲNG PHẬT ÐỘ, TÙY NGUYỆN GIAI ÐẮC VÃNG SANH."

Nghĩa: Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Nếu chư nhân thiên tụng trì Thần Chú Ðại Bi, thì lúc lâm chung, mười phương chư Phật đều đến cầm tay tiếp dẫn; và muốn sanh về cõi Phật nào cũng đều được tùy nguyện vãng sanh."

  

Lược Giảng:

Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Nếu chư nhân thiên tụng trì Thần Chú Ðại Bi, thì lúc lâm chung, mười phương chư Phật đều đến cầm tay tiếp dẫn." Giả sử các chúng sanh trong cõi người và cõi trời tụng trì Chú Ðại Bi này thì đến lúc hấp hối, họ sẽ được chư Phật từ khắp mười phương hiện đến và đưa tay tiếp dẫn, đích thân nắm tay họ mà dắt về cõi nước của các ngài.

 

"Và muốn sanh về cõi Phật nào cũng đều được tùy nguyện vãng sanh." Lại nữa, các chúng sanh này muốn sanh về cõi Phật nào thì đều được vãng sanh về cõi Phật đó, đúng như ước nguyện của họ.

 

Kinh Văn:

Âm: PHỤC BẠCH PHẬT NGÔN: "THẾ TÔN! NHƯỢC CHƯ CHÚNG SANH TỤNG TRÌ ÐẠI BI THẦN CHÚ, ÐỌA TAM ÁC ÐẠO GIẢ, NGÃ THỆ BẤT THÀNH CHÁNH GIÁC.

TỤNG TRÌ ÐẠI BI THẦN CHÚ GIẢ, NHƯỢC BẤT SANH CHƯ PHẬT QUỐC GIẢ, NGÃ THỆ BẤT THÀNH CHÁNH GIÁC.

TỤNG TRÌ ÐẠI BI THẦN CHÚ GIẢ, NHƯỢC BẤT ÐẮC VÔ LƯỢNG TAM-MUỘI BIỆN TÀI GIẢ, NGÃ THỆ BẤT THÀNH CHÁNH GIÁC."

Nghĩa: Lại bạch Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Nếu các chúng sanh tụng trì Thần Chú Ðại Bi mà còn bị đọa vào ba ác đạo, thì con nguyện sẽ không thành Chánh Giác.

Tụng trì Thần Chú Ðại Bi, nếu không được sanh về các cõi nước của chư Phật, thì con nguyện sẽ không thành Chánh Giác.

Tụng trì Thần Chú Ðại Bi, nếu không chứng đắc vô lượng Tam-muội và biện tài, thì con nguyện sẽ không thành Chánh Giác."

 

Lược Giảng:

Ðức Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Nếu các chúng sanh tụng trì Thần Chú Ðại Bi mà còn bị đọa vào ba ác đạo—địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh—thì con nguyện sẽ không thành Chánh Giác." Như vậy, nếu tất cả những chúng sanh tụng trì Chú Ðại Bi đều không còn bị đọa vào ba đường ác, thì Quán Thế Âm Bồ-tát mới thành Phật!

 

"Tụng trì Thần Chú Ðại Bi, nếu không được sanh về các cõi nước của chư Phật, thì con nguyện sẽ không thành Chánh Giác." Giả sử có người trì niệm Thần Chú Ðại Bi và phát nguyện muốn được sanh về quốc độ của đức Phật nào đó, nếu người ấy không được toại nguyện thì Quán Thế Âm Bồ-tát sẽ không thành Phật!

 

"Tụng trì Thần Chú Ðại Bi, nếu không chứng đắc vô lượng Tam-muội và biện tài, thì con nguyện sẽ không thành Chánh Giác." Giả sử có người trì niệm Thần Chú Ðại Bi mà lại chẳng chứng được vô lượng Tam-muội cùng đại biện tài—không có được khả năng biện luận và giảng kinh thuyết pháp, cũng chẳng được khai mở đại trí huệ—thì Quán Thế Âm Bồ-tát cũng sẽ không thành Phật.

  

Kinh Văn:

Âm: "TỤNG TRÌ ÐẠI BI THẦN CHÚ GIẢ, Ư HIỆN TẠI SANH TRUNG, NHẤT THIẾT SỞ CẦU NHƯỢC BẤT QUẢ TOẠI GIẢ, BẤT ÐẮC VI ÐẠI BI TÂM ÐÀ-LA-NI DÃ; DUY TRỪ BẤT THIỆN, TRỪ BẤT CHÍ THÀNH."

Nghĩa: "Tụng trì Thần Chú Ðại Bi mà nếu ngay trong đời hiện tại, tất cả những sự mong cầu lại không được kết quả toại ý, thì không gọi là Ðại Bi Tâm Ðà-La-Ni; chỉ trừ bất thiện, trừ chẳng chí thành."

 

Lược Giảng:

Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch cùng Ðức Phật rằng: "Những người tụng trì Thần Chú Ðại Bi mà nếu ngay trong đời hiện tại, tất cả những sự mong cầu lại không được kết quả toại ý, không được mãn nguyện, thì Thần Chú này không gọi là Ðại Bi Tâm Ðà-La-Ni!" Tuy nhiên, có một điều chúng ta cần phải lưu ý trước, đó là các trường hợp ngoại le?#151;"chỉ trừ bất thiện, trừ chẳng chí thành."

"Chỉ trừ bất thiện." Nếu quý vị một mặt thì tụng Chú Ðại Bi, mặt khác lại đi giết người, cướp của, hoặc tà dâm, vọng ngữ, rượu thịt say sưa..., chẳng từ một việc xấu nào cả, thì hẳn nhiên là Thần Chú sẽ không hiển linh, không công hiệu. "Bất thiện" là bao gồm hết thảy mọi hành vi bất chánh, tà vạy như sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ...

"Trừ chẳng chí thành." Nếu quý vị tụng niệm qua loa cho có lệ, nói là muốn thử xem Chú Ðại Bi có thật sự linh nghiệm hay không, như thế có nghĩa là quý vị không có lòng thành. Quý vị không có ý muốn thử, thì Chú sẽ linh ứng; song nếu quý vị muốn thử, thì Chú sẽ chẳng hiển linh! Vì sao ư? Vì Phật và Bồ-tát không phải là đối tượng để cho quý vị tùy tiện thử thách, thí nghiệm—các ngài không cần quý vị đến thử nghiệm! Chư Phật và chư Bồ-tát có thể thử nghiệm chúng sanh, song chúng sanh không được phép thử nghiệm các ngài. Do đó, nếu quý vị rắp tâm muốn thử xem sự việc sẽ như thế nào, tức là quý vị không có lòng chí thành; mà không có lòng thành khẩn thiết tha thì chẳng thể nào có sự cảm ứng linh nghiệm được!

 

Kinh Văn:

Âm: "NHƯỢC CHƯ NỮ NHÂN YẾM TIỆN NỮ THÂN, DỤC THÀNH NAM TỬ THÂN, TỤNG TRÌ ÐẠI BI ÐÀ-LA-NI CHƯƠNG CÚ, NHƯỢC BẤT CHUYỂN NỮ THÂN THÀNH NAM TỬ THÂN GIẢ, NGÃ THỆ BẤT THÀNH CHÁNH GIÁC; SANH THIỂU NGHI TÂM GIẢ, TẤT BẤT QUẢ TOẠI DÃ."

Nghĩa: "Nếu các người nữ chán ghét thân nữ, muốn thành thân nam, tụng trì Thần Chú Ðại Bi Ðà-La-Ni, như không được chuyển thân nữ thành thân nam, thì con thề sẽ không thành Chánh Giác; người nào còn sanh chút lòng nghi tất không được toại nguyện."

 

Lược Giảng:

"Nếu các người nữ chán ghét thân nữ, không muốn phải sanh làm người nữ nữa, muốn thành thân nam, tụng trì Thần Chú Ðại Bi Ðà-La-Ni, như không được chuyển thân nữ thành thân nam, thì con thề sẽ không thành Chánh Giác." Sự "chuyển thân nữ thành thân nam" này không phải là sẽ xảy ra ngay trong đời hiện tại, mà là ứng vào đời sau trong thời vị lai.

Vậy, giả sử những người nữ ao ước được làm người nam đó siêng năng trì niệm Chú Ðại Bi, mà đến đời sau họ lại không được sanh làm thân nam, thì Quán Thế Âm Bồ-tát quyết sẽ không thành Phật.

 

"Người nào còn sanh chút lòng nghi tất không được toại nguyện." Tuy nhiên, nếu trong lòng quý vị có dấy lên dù chỉ một mảy may hoài nghi thì sự mầu nhiệm sẽ chẳng bao giờ xảy ra, và do đó, tâm nguyện của quý vị sẽ không được thành tựu.

 

Kinh Văn:

Âm: "NHƯỢC CHƯ CHÚNG SANH XÂM TỔN THƯỜNG TRỤ ẨM THỰC TÀI VẬT, THIÊN PHẬT XUẤT THẾ BẤT THÔNG SÁM HỐI, TÚNG SÁM DIỆC BẤT TRỪ DIỆT, KIM TỤNG ÐẠI BI THẦN CHÚ, TỨC ÐẮC TRỪ DIỆT."

Nghĩa: "Nếu các chúng sanh xâm tổn tài vật, đồ ăn thức uống của Thường Trụ, thì dẫu một ngàn đức Phật ra đời cũng chẳng được sám hối, mà dù có sám hối cũng không tiêu trừ được; nay tụng Thần Chú Ðại Bi thì tức khắc được tiêu trừ."

 

Lược Giảng:

"Nếu các chúng sanh xâm tổn tài vật, đồ ăn thức uống của Thường Trụ." Thường Trụ tức là nhà chùa.

Những kẻ đến chùa ăn uống, tiêu thụ vật thực của chùa mà không cúng dường tiền lại, hoặc mượn đồ dùng của chùa rồi không chịu trả, lạm dụng tài vật của chùa... thì sẽ mang tội rất nặng. Tội ấy, "thì dẫu một ngàn đức Phật ra đời, cũng chẳng được sám hối. Chư Phật không thể hứa khả cho họ sám hối, mà dù có sám hối cũng không tiêu trừ được."

Cái tội xâm chiếm hoặc làm hao tổn thực phẩm và tài vật của chùa chiền rất nghiêm trọng, cho dù các chúng sanh đó có đối trước chư Phật mà khẩn cầu sám hối thì tội lỗi cũng chẳng thể tiêu tan. Thế nhưng, "nay tụng Thần Chú Ðại Bi, thì tức khắc được tiêu trừ." Nếu ngay bây giờ họ trì tụng Chú Ðại Bi, thì bao nhiêu tội chướng sẽ lập tức tiêu tan!

 

Kinh Văn:

Âm: "NHƯỢC XÂM TỔN THỰC DỤNG THƯỜNG TRỤ ẨM THỰC TÀI VẬT, YẾU ÐỐI THẬP PHƯƠNG SƯ SÁM TẠ, NHIÊN THỦY TRỪ DIỆT; KIM TỤNG ÐẠI BI ÐÀ-LA-NI THỜI, THẬP PHƯƠNG SƯ TỨC LAI VI TÁC CHỨNG MINH, NHẤT THIẾT TỘI CHƯỚNG, TẤT GIAI TIÊU DIỆT."

Nghĩa: "Nếu xâm tổn tài vật, đồ ăn thức uống của Thường Trụ, thì phải đối trước mười phương Sư mà sám hối, mới có thể tiêu trừ; nay tụng Ðại Bi Ðà-La-Ni thì mười phương Sư liền đến chứng minh, tất cả tội chướng đều được tiêu tan."

 

Lược Giảng:

"Nếu xâm tổn tài vật, đồ ăn thức uống của Thường Trụ, thì phải đối trước mười phương Sư mà sám hối, mới có thể tiêu trừ." Những kẻ dám chiếm đoạt hoặc gây tổn thất hư hại cho tài sản, đồ ăn thức uống của nhà chùa, thì phải đối trước chư Ðại Sư ở khắp mười phương—cũng chính là mười phương chư Phật—để sám hối tạ tội thì may ra nghiệp tội tày trời của họ mới có thể được tiêu tan.

Tuy nhiên, những kẻ đó nếu "nay tụng Ðại Bi Ðà-La-Ni thì mười phương Sư liền đến chứng minh, tất cả tội chướng đều được tiêu tan." Chỉ cần ngay bây giờ những kẻ ấy bắt đầu thành khẩn tụng trì Chú Ðại Bi, thì mười phương chư Phật sẽ đến để chứng giám cho họ, và mọi tội lỗi nghiệp chướng của họ liền được tiêu tan.

 

Kinh Văn:

 

Âm: "NHẤT THIẾT THẬP ÁC, NGŨ NGHỊCH, BÁNG NHÂN BÁNG PHÁP, PHÁ TRAI PHÁ GIỚI, PHÁ THÁP HOẠI TỰ, THÂU TĂNG KỲ VẬT, Ô TỊNH PHẠM HẠNH; NHƯ THỊ ÐẲNG NHẤT THIẾT ÁC NGHIỆP TRỌNG TỘI, TẤT GIAI DIỆT TẬN."

Nghĩa: "Tất cả các tội Thập Ác, Ngũ Nghịch, báng nhân báng Pháp, phá trai phá Giới, phá chùa hủy tháp, trộm của Tăng-kỳ, làm nhơ Phạm hạnh thanh tịnh; bao nhiêu nghiệp ác tội nặng như thế đều được dứt sạch."

 

Lược Giảng:

"Tất cả các tội Thập Ác, Ngũ Nghịch ..."

 

Thập Ác tức là mười việc ác: 1) Sát sanh; 2) Trộm cắp ; 3) Tà dâm; 4) Tham lam; 5) Sân hận; 6) Si mê; 7) Nói lời thêu dệt; 8) Nói lời gian dối; 9) Nói lời hung ác; 10) Nói lời đâm thọc (nói lưỡi đôi chiều).

Ngũ Nghịch là năm tội nghịch tày trời: 1) Giết cha; 2) Giết mẹ; 3) Giết bậc A-La-Hán; 4) Phá sự hòa hợp của Tăng chúng; 5) Làm cho thân Phật chảy máu.

 

"Báng nhân, báng Pháp." "Báng nhân" tức là hủy báng, chê bai, bôi nhọ người khác. Thí dụ, người ta vốn là một vị tu hành, có đạo đức, mà mình lại buông lời miệt thị: "Ui chao! Hắn là một kẻ chẳng ra gì, đừng nhắc tới nữa!"; như thế là hủy báng tha nhân vậy.

"Báng Pháp" tức là hủy báng Phật Pháp, hủy báng chư Tăng Ni, khinh chê lời Phật dạy.

"Phá trai, phá Giới." Nếu quý vị đã nguyện là chỉ ăn chay, song lại không giữ lời, tùy tiện ăn thịt; như thế tức là quý vị "phá trai" vậy. Nếu quý vị thọ Giới mà lại không giữ Giới, cứ làm những điều trái với Giới Luật, thì đó gọi là "phá Giới."

 

"Phá chùa hủy tháp, trộm của Tăng-kỳ, làm nhơ Phạm hạnh thanh tịnh." "Phá chùa hủy tháp" tức là phá hoại, triệt hạ chùa chiền và tháp miếu thờ Phật; "trộm của Tăng-kỳ" là lấy cắp đồ đạc của người xuất gia; "làm nhơ Phạm hạnh thanh tịnh" là khiến cho người đang tu hạnh thanh tịnh bị ô uế, không giữ được hạnh trong sạch nữa.

Những tội lỗi kể trên đều rất nghiêm trọng, tuy thế, nếu quý vị đã trót phạm mà nay lại có thể thành tâm trì tụng Chú Ðại Bi thì "bao nhiêu nghiệp ác tội nặng như thế đều được dứt sạch."

 

Kinh Văn:

Âm: "DUY TRỪ NHẤT SỰ, Ư CHÚ SANH NGHI GIẢ, NÃI CHÍ TIỂU TỘI KHINH NGHIỆP, DIỆC BẤT ÐẮC DIỆT, HÀ HUỐNG TRỌNG TỘI? TUY BẤT TỨC DIỆT TRỌNG TỘI, DO NĂNG VIỄN TÁC BỒ ÐỀ CHI NHÂN."

Nghĩa: "Chỉ trừ một việc, nếu đối với Thần Chú còn sanh lòng nghi thì ngay cả tội nhỏ nghiệp nhẹ cũng không được tiêu trừ, huống hồ tội nặng? Tuy không thể tức khắc tiêu trừ được tội nặng, song vẫn có thể làm nhân xa của Bồ-đề."

 

Lược Giảng:

Tuy nhiên, "chỉ trừ một việc." Câu này vô cùng quan trọng; vậy thì ngoại trừ trường hợp nào? Ðó là trường hợp "nếu đối với Thần Chú còn sanh lòng nghi."

Nếu quý vị cứ phân vân: "Không biết Chú này có linh nghiệm như thế thật không nhỉ? Có thật là có sự mầu nhiệm đến thế không? Tuy nói rằng trì tụng Chú này thì được cảm ứng, nhưng đó chỉ toàn là nghe người ta kể lại chứ mình vẫn chưa được chứng kiến tận mắt; chẳng biết có đúng là như vậy hay không?"; tức là quý vị không có lòng tin đối với Thần Chú. Mà hễ quý vị không tin thì thế nào? Thì sẽ hoàn toàn không linh nghiệm! Vì sao ư? Bởi vì quý vị không đặt trọn lòng tin nơi Thần Chú!

Thí dụ, khi quý vị nhờ bạn bè làm giùm một việc gì đó, thì quý vị cần phải thật tâm tín nhiệm họ; bằng không, họ sẽ chẳng muốn giúp quý vị! Tương tự như thế, quý vị cần phải tuyệt đối tin tưởng vào Thần Chú này; bằng không, "thì ngay cả tội nhỏ nghiệp nhẹ cũng không được tiêu trừ."

"Ðối với Thần Chú còn sanh lòng nghi" cũng có nghĩa là không "y giáo phụng hành," không làm đúng theo các đạo lý bao hàm trong Thần Chú. Thí dụ Quán Thế Âm Bồ-tát căn dặn là hành giả mỗi ngày phải tụng Chú Ðại Bi đủ năm biến, thì quý vị không tụng năm biến mà lại tụng bốn biến, còn nói rằng: "Bớt đi một biến thì đâu có gì quan trọng?! Tụng nhiều hay ít thì cũng vậy thôi; miễn có tụng là được rồi!" Thế là, hôm nay lười biếng nên chỉ tụng một biến rồi nghỉ; hôm sau siêng năng hơn nên tụng luôn một lúc đến một trăm biến để bù lại! Như vậy thì có khác gì hôm nay ăn một lúc hết hai mươi chén cơm, rồi sang ngày mai thì không ăn gì cả? Không ăn gì cả thì đói chịu không nổi; còn ăn luôn hai chục chén cơm thì bụng no anh ách cũng chẳng dễ chịu tí nào! Việc tụng Chú Ðại Bi tuy về hình tướng thì không hoàn toàn giống như việc ăn cơm, song tính cách thì cũng tương tự. Trong kinh đã dặn mỗi ngày tụng năm biến thì chúng ta phải mỗi ngày chăm chỉ tụng đủ năm biến; nhất định phải đều đặn như thế, chứ đừng tụng sáu biến, mà cũng chớ nên tụng bốn biến!

Có người phân trần: "Tôi vốn kém trí nhớ, nên cứ lẫn lộn, không biết là mình đã tụng đủ năm biến hay chỉ mới tụng bốn biến!" Nói như thế tức là quý vị hoàn toàn chẳng có tụng niệm gì cả! Bởi quý vị không thể nhớ được kia mà! Tụng được bao nhiêu biến mà chính mình cũng không nhớ rõ, thì một biến cũng chẳng thành lập! Do đó, quý vị cần phải ghi nhớ cho rõ ràng rành mạch.

Lại có người thắc mắc: "Tôi vừa bắt đầu niệm Chú thì đầu óc cứ mơ mơ màng màng; như thế có kể là có tụng không?" Như thế thì không kể; đó là ngủ gà ngủ gật chứ không phải là tụng Chú!

Có người thì kể lể: "Mỗi lần tôi tu Pháp là hai mắt cứ ríu lại, mở không ra!" Như thế cũng không tính, bởi quý vị chỉ tu niệm một cách hồ đồ, điên đảo, thiếu sáng suốt. Quý vị cần phải y theo giáo pháp mà tu tập trong sự tỉnh táo, minh mẫn mới được!

Cũng có người tự biện hộ rằng: "Tôi chỉ phạm một vài sai sót nho nhỏ thôi thì chắc cũng không sao; vị Thần của Chú không thể nào biết được! Hiện tại tôi chưa tụng Chú, thì vị Chú Thần chưa đến, vậy tôi có uống chút xíu rượu cũng chẳng hề gì!" Suy nghĩ như thế tức là quý vị "còn sanh lòng nghi," không có tín tâm đối với Chú. Phải như thế nào mới gọi là thật sự có tín tâm đối với Chú? Phải thành khẩn, không mảy may gợn chút hoài nghi, và phải theo đúng khuôn phép, nền nếp mà tu hành!

 

"Huống hồ tội nặng?" Tội nhỏ nghiệp nhẹ mà còn không tiêu trừ được, thì tội lớn nghiệp nặng lại càng khó thể tiêu trừ hơn nữa!

 

"Tuy không thể tức khắc tiêu trừ được tội nặng, song vẫn có thể làm nhân Bồ-đề về lâu xa." Mặc dù quý vị tụng Chú với lòng nghi thì tội nặng không thể được tiêu trừ ngay, song quý vị vẫn có thể gieo được cái nhân Bồ-đề cho chính mình về sau. Hạt giống Bồ-đề này, đến một đại kiếp nào đó trong tương lai sẽ nẩy mầm Bồ-đề và sẽ lớn mạnh, kết thành quả Bồ-đề. Cho nên, một khi đã trồng cái nhân rồi, thì sớm muộn gì nó cũng đâm chồi nẩy lộc, đơm hoa kết trái.


KINH VĂN:

Âm: PHỤC BẠCH PHẬT NGÔN: "THẾ TÔN! NHƯỢC CHƯ NHÂN THIÊN TỤNG TRÌ ÐẠI BI TÂM CHÚ GIẢ, ÐẮC THẬP NGŨ CHỦNG THIỆN SANH, BẤT THỌ THẬP NGŨ CHỦNG ÁC TỬ DÃ."

Nghĩa: Ngài lại bạch Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Nếu các hàng trời, người tụng trì Ðại Bi Tâm Chú, thì sẽ được mười lăm loại thiện sanh và không phải chịu mười lăm loại ác tử."

 

LƯỢC GIẢNG:

Ngài?/font>Quán Thế Âm Bồ-tát�lại bạch Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Nếu các hàng trời, người tụng trì Ðại Bi Tâm Chú, thì sẽ được mười lăm loại thiện sanh." "Thiện sanh" tức là sự sinh sống tốt lành.

Nếu loài người ở nhân gian hoặc chư thiên ở cõi trời có thể học thuộc và siêng năng thọ trì Kinh Ðại Bi Tâm Ðà-La-Ni cùng Chú Ðại Bi, thì họ sẽ được mười lăm việc tốt lành; "và không phải chịu mười lăm loại ác tử." "Ác tử" là những cái chết tức tưởi do rủi ro, bất trắc. Nếu quý vị thành tâm trì tụng Chú Ðại Bi thì sẽ tránh được mười lăm loại "ác tử."

 

KINH VĂN:

Âm: "KỲ ÁC TỬ GIẢ:

NHẤT GIẢ, BẤT LINH KỲ CƠ NGẠ KHỐN KHỔ TỬ;

NHỊ GIẢ, BẤT VI GIÀ CẤM TRƯỢNG SỞ TỬ;

TAM GIẢ, BẤT VI OÁN GIA THÙ ÐỐI TỬ;

TỨ GIẢ, BẤT VI QUÂN TRẬN TƯƠNG SÁT TỬ;

NGŨ GIẢ, BẤT VI HỔ LANG ÁC THÚ TÀN HẠI TỬ;

LỤC GIẢ, BẤT VI ÐỘC XÀ NGOAN YẾT SỞ TRÚNG TỬ;

THẤT GIẢ, BẤT VI THUỶ HỎA PHẦN PHIÊU TỬ;

BÁT GIẢ, BẤT VI ÐỘC DƯỢC SỞ TRÚNG TỬ;

CỬU GIẢ, BẤT VI CỔ ÐỘC HẠI TỬ;

THẬP GIẢ, BẤT VI CUỒNG LOẠN THẤT NIỆM TỬ;

THẬP NHẤT GIẢ, BẤT VI SƠN THỌ NHAI NGẠN ÐỌA LẠC TỬ;

THẬP NHỊ GIẢ, BẤT VI ÁC NHÂN YẾM MỴ TỬ;

THẬP TAM GIẢ, BẤT VI TÀ THẦN ÁC QUỶ ÐẮC TIỆN TỬ;

THẬP TỨ GIẢ, BẤT VI ÁC BỆNH TRIỀN THÂN TỬ;

THẬP NGŨ GIẢ, BẤT VI PHI PHẬN TỰ HẠI TỬ."

Nghĩa: "Các loại ác tử đó là:

Một là không bị chết vì đói khát, khốn khổ;

Hai là không bị chết vì gông, tù, đòn roi;

Ba là không bị chết vì oan gia thù nghịch;

Bốn là không bị chết vì chiến trận tương tàn;

Năm là không bị chết vì cọp, sói, ác thú tàn hại;

Sáu là không bị chết vì trúng độc rắn, rết, bò cạp;

Bảy là không bị chết vì nước cuốn, lửa thiêu;

Tám là không bị chết vì trúng phải độc dược;

Chín là không bị chết vì cổ độc tác hại;

Mười là không bị chết vì điên loạn, mất trí;

Mười một là không bị chết vì núi lở, cây ngã, vách đá sụp;

Mười hai là không bị chết vì kẻ ác thư ếm;

Mười ba là không bị chết vì tà thần, ác quỉ thừa cơ làm hại;

Mười bốn là không bị chết vì ác bệnh triền thân;

Mười lăm là không bị chết vì tự sát, tự tử."

 

LƯỢC GIẢNG:

Quán Thế Âm Bồ-tát bạch với Ðức Phật: "Các loại ác tử đó là: Một là không bị chết vì đói khát, khốn khổ." Loại "ác tử" (cái chết xấu) thứ nhất là "chết vì đói khát, khốn khổ." Nếu quý vị tụng trì Chú Ðại Bi thì sẽ không bao giờ bị đói khát, thiếu thốn. "Ðói khát" tức là không có cơm ăn nước uống, phải chịu đói chịu khát mà chết. "Khốn khổ" tức là vô cùng vất vả cực khổ, không được vui sướng thảnh thơi. Con người có thể bị chết do đói, do lạnh, hoặc do nghèo nàn khốn khó; song nếu thành tâm trì tụng Chú Ðại Bi thì chúng ta sẽ không phải lâm vào các hoàn cảnh đó.

"Hai là không bị chết vì gông, tù, đòn roi." Loại "ác tử" thứ hai là "chết vì gông, tù, đòn roi."

"Gông" là thứ hình cụ đeo ở cổ tội nhân. Ở Mỹ quốc không biết có thứ hình cụ này không, chứ ở nước Trung Hoa thì thời xưa người ta thường tròng cái gông vào cổ của kẻ phạm pháp, rồi bắt đi diễu qua các đường phố cho mọi người đều trông thấy.

Nếu quý vị có thể thành tâm trì tụng Chú Ðại Bi thì sẽ không bị chết do phải mang gông cùm quá lâu ngày hoặc do tù đày khổ sở, và cũng không bị đánh đập đến gãy tay gãy chân, đau đớn quá mà chết.

"Ba là không bị chết vì oan gia thù nghịch." Loại "ác tử" thứ ba là "chết vì oan gia thù nghịch." Trên thế gian này, chúng ta hầu như ai cũng có "oan gia đối đầu." "Oan gia" (kẻ có oán thù) tức là kẻ chỉ có thù hận, oán ghét, chứ không có thiện duyên với quý vị.

Những kẻ cứ mang lòng thù hận cũng rất đáng thương, vì tâm tư họ luôn trĩu nặng một nỗi phẫn uất, không thể nào giải tỏa được. Nói chung, họ bị bao phủ bởi một thứ oán khí u ám và sống trong sự thù ghét, hằn học�tôi thù anh, anh hận tôi. Chữ "thù" này cũng đồng nghĩa với chữ "cừu," có nghĩa là căm ghét, thù hận. Người ta thường do những việc không ưng ý mà sanh ra thù hằn, chống đối lẫn nhau.

"Bốn là không bị chết vì chiến trận tương tàn." Loại "ác tử" thứ tư là "chết vì chiến trận tương tàn." Những người có trì tụng Thần Chú Ðại Bi thì cho dù phải ra chiến trường chiến đấu với địch quân, cũng không bị chết vì tên bay đạn lạc.

Cho nên, nếu quý vị nào có nhiệm vụ huấn luyện binh lính thì hãy dạy cho họ trì niệm Chú Ðại Bi, để đến khi giao chiến họ không bị trúng đạn mà tử thương. Thế nhưng, nếu quý vị dùng Chú Ðại Bi để huấn luyện binh lính đi gây chiến, thì tuy không bị tử trận, song cũng chẳng thể đánh thắng được! Ðó là vì Bồ-tát không muốn nhân loại gây khởi chiến tranh, chém giết lẫn nhau.

"Năm là không bị chết vì cọp, sói, ác thú tàn hại." Loại "ác tử" thứ năm là "chết vì bị cọp, sói, ác thú tàn hại." Nếu quý vị trì tụng Chú Ðại Bi thì sẽ không bị cọp beo, chó sói, hoặc những thú dữ khác cắn chết hay tàn hại.

"Sáu là không bị chết vì trúng độc rắn, rết, bò cạp." Loại "ác tử" thứ sáu là "chết vì bị trúng độc của rắn, rết, bò cạp." Rắn, rết (một loại rắn thân màu đen tuyền) và bò cạp đều có nọc độc; người nào chẳng may trúng phải nọc độc của chúng thì đành bó tay chịu chết, vô phương cứu chữa. Tuy nhiên, nếu quý vị trì tụng Chú Ðại Bi thì sẽ không bị nọc của các độc trùng đó làm hại đến tánh mạng.

"Bảy là không bị chết vì nước cuốn, lửa thiêu." Loại "ác tử" thứ bảy là "chết vì bị nước cuốn, lửa thiêu." Người trì tụng Chú Ðại Bi thì "xuống nước không chìm, vào lửa không cháy." Thế nào là "xuống nước không chìm, vào lửa không cháy"? Trước đây tôi có kể cho quý vị nghe một công án về vấn đề này, song vẫn có nhiều người chưa được nghe, vậy hôm nay tôi kể lại một lần nữa.

Thuở trước, có một Ðạo-sĩ nọ chuyên tu luyện công phu "xuất huyền nhập tẫn." Công phu "xuất huyền nhập tẫn" là gì? Người luyện được công phu này thì có thể khiến cho một hình nhân nho nhỏ xuất ra từ đỉnh đầu của mình để đi đây đi đó, và rồi vẫn có thể trở về nhập vào xác thân lại như cũ. Hình nhân xuất ra gọi là "xuất huyền," trở về lại với nhục thân gọi là "nhập tẫn."

Vị Ðạo-sĩ "xuất huyền nhập tẫn" này thường đi khắp nơi để tham vấn, học hỏi. Một hôm, ông đi ngang qua một ngôi chùa nhỏ, trong chùa chỉ có một thầy Tỳ-kheo già và một chú Sa-di còn nhỏ tuổi ở đó tu hành. Bấy giờ trời cũng vừa sập tối, ông bèn vào chùa xin tá túc qua đêm.

Ðến khuya hôm ấy, vị Ðạo-sĩ ngồi tĩnh tọa, dùng công phu "xuất huyền" mà xuất ra ngoài dạo chơi. Ông tới thăm Nhật Bản, rồi sang Ðức, sang Úc... Tuy những nơi đó toàn là người ngoại quốc và ông cũng chẳng hiểu được ngôn ngữ của họ, song ông vẫn muốn viếng thăm các danh lam thắng cảnh cho thỏa lòng hiếu kỳ. Ông cứ thong thả dạo khắp đó đây, ung dung chiêm ngưỡng các kỳ quan của thế giới. Rất có thể là ông cũng có đến Hoa Kỳ và ngắm nghía cầu Kim Môn (Golden Gate Bridge): "Ồ! Cầu Kim Môn có kiến trúc đẹp thật, quả là một công trình vĩ đại!"; rồi mải mê nhìn ngắm đến quên mất chuyện trở về.

Sáng sớm hôm sau, lúc ăn điểm tâm, vị Tỳ-kheo già bảo chú Sa-di: "Con hãy vào mời ông khách ngủ trọ hôm qua ra dùng điểm tâm!"

Chú Sa-di đến phòng dành cho vị Ðạo-sĩ thì thấy ông đang ngồi yên... bất động: "Ồ! Ông ấy ngồi mà viên tịch rồi!" Thế là chú hớt hãi chạy đi báo cho vị Tỳ-kheo hay: "Sư-phụ ơi! Ông khách xin tá túc tối qua đã viên tịch rồi!"

Vị Tỳ-kheo vội vã vào xem thì thấy quả thật vị Ðạo-sĩ đã chết rồi. Thật ra, đó là vì trong khi "xuất huyền" thì nhục thân của ông Ðạo-sĩ nọ không còn hô hấp, mà tim mạch cũng ngừng đập, nên tình trạng lúc ấy trông chẳng khác gì một xác chết vậy.

Vị Tỳ-kheo già bảo: "Ồ! Ông ấy chết thật rồi! Thôi thì chúng ta hãy làm lễ hỏa táng cho ông ấy vậy." Và chẳng mấy chốc thì nhục thân của vị Ðạo-sĩ đã trở thành một đống tro tàn!

Bấy giờ, vị Ðạo-sĩ sau khi "xuất huyền"?đi du ngoạn thỏa thích rồi (mà không tốn tiền mua vé máy bay!), bèn tính chuyện trở về để "nhập tẫn." Trở về, mới hay nhục thân của mình không còn ở chỗ cũ nữa, ông hốt hoảng lùng kiếm khắp nơi song vẫn không tìm ra. Thế là tối đến, ông liền tới ngôi chùa nhỏ nọ quát hỏi om sòm: "Các người đem cái "nhà" của ta đi đâu? Hãy trả "nhà" lại cho ta!" ("nhà" là ám chỉ nhục thân của ông.)

Vị Tỳ-kheo già cùng chú Sa-di nghe thấy thì kinh ngạc nhìn nhau: "Ai thế? Ai nói gì đấy?" Bởi vì tuy cũng là người tu hành, song họ chưa có được Ngũ Nhãn, Lục Thông; bằng không, họ có thể nhìn thấy và biết rằng vị khách hôm nọ đã trở về. Chính vì chỉ nghe có tiếng nói chứ không thấy dáng người nên cả hai thầy trò đều cho rằng đó là ma quỷ đến quấy phá: "Ồ, đó hẳn là hồn ma của ông khách hôm nọ trở về đòi nhà chứ gì?!"

Hôm đầu tiên thì đêm đến "hồn ma" của vị Ðạo-sĩ mới tới chùa để đòi nha? nhưng qua hôm sau thì trời vừa nhá nhem tối là ông đã đến rồi. Và kể từ đó, hôm nào ông cũng đến, có lúc ngay cả giữa ban ngày mà ông cũng đến kêu réo đòi nhà. Trong khoảng hơn một tháng, ngày nào ông cũng đến chùa nằng nặc đòi nhà như thế, khiến cho lão Tỳ-kheo và chú Sa-di sanh lòng sợ hãi: "Chậc, trong chùa có ma thật rồi! Thế này thì e rằng chúng ta phải lánh đi nơi khác mà thôi; không thể nào ở đây được nữa!" Thế là họ quyết định bỏ chùa mà đi.

Chiều hôm đó, hai thầy trò đang chuẩn bị để ngày mai dọn đi, thì có một nhà Sư đến xin tá túc. Bấy giờ, vị Tỳ-kheo già bảo chú Sa-di: "Con hãy thưa với ông ấy rằng chúng ta hiện nay không cho khách ngủ trọ nữa! Lần trước đã xảy ra chuyện rắc rối quá rồi!"

Chú Sa-di thưa lại với vị Sư mới đến: "Xin Thầy hãy đến nơi khác tá túc. Chùa chúng con hiện nay không cho ngủ trọ nữa ạ."

Vị Sư nọ gạn hỏi: "Nhà chùa hiện nay không cho ngủ trọ nữa ư? Như thế có nghĩa là trước kia thì chùa vẫn cho khách ngủ trọ! Vậy thì tại sao bây giờ lại không cho nữa? Chú có thể cho ta biết nguyên do chăng?"

Chú Sa-di bèn kể lể sự tình: "Bởi vì trước kia có một ông khách xin tá túc và rồi viên tịch tại đây. Chúng con đã hỏa thiêu nhục thân của ông ấy, bây giờ ngày nào hồn ma của ông ấy cũng đến đòi nhà. Cho nên nay nhà chùa không dám cho khách ngủ trọ nữa; vả lại, chùa chúng con cũng sắp dọn đi nơi khác rồi."

Vị Sư nọ gật gù: "Ồ, thì ra là như thế! Không sao, ta có thể trị được ma quỷ. Ta có cách khiến cho con ma đó phải chịu đầu hàng, tòng phục."

Nghe vị Sư nói như thế thì chú Sa-di mừng rỡ reo lên: "Thế thì để con vào thưa lại với Sư-phụ, xem Sư-phụ định liệu ra sao!" Nói dứt lời, chú hớn hở chạy về liêu phòng bạch cùng vị Tỳ-kheo: "Bạch Sư-phụ! Ông Sư mới đến ấy bảo rằng có thể trị được ma quỷ. Ông ấy muốn ngủ trọ một đêm, chẳng hay Sư-phụ có bằng lòng chăng?"

Vị Tỳ-kheo đáp với vẻ đắn đo: "Ậy! Ông ta nói trị được ma quỷ là nói gạt con đấy! Chúng ta là người xuất gia mà đều không trị được ma quỷ, ông ấy cũng như chúng ta thôi, thì làm sao mà trị được chúng? Mà thôi, bất luận có trị được hay không thì chúng ta cũng cứ để cho ông ấy tá túc một đêm rồi hẵng hay!" Chủ ý của vị Tỳ-kheo là cứ thử xem sao�vị Sư nọ nếu trị được con ma này thì tốt, mà dẫu không trị nổi nó thì cũng không sao, đằng nào ông ta cũng chỉ ở nhờ có một đêm! Và thế là vị Sư nọ được mời ở lại chùa.

Bấy giờ, vị Sư nọ hỏi hai thầy trò: "Chẳng hay ông khách nọ chết ở phòng nào? Bây giờ ông ta đòi trả nhà, thế thì ông ta ở đâu chui ra mà đòi nhà?"

Vị Tỳ-kheo đáp: "Ông ấy ở tại liêu phòng phía tây. Ông ấy đến hôm trước thì hôm sau viên tịch; và cũng từ đó bắt đầu có ma quỷ đến đòi nhà. Hễ mặt trời vừa lặn là ông ấy lại đến; theo Thầy thì chúng ta phải làm gì bây giờ?"

Vị Sư nói: "Dễ thôi! Xin Sư-phụ hãy chuẩn bị cho tôi một chậu nước thật lớn, đồng thời đốt một đống lửa trong phòng của tôi. Sư-phụ hãy làm theo lời tôi dặn đi, rồi đâu sẽ vào đấy thôi!"

Tối hôm đó, quả nhiên có tiếng kêu réo: "Bớ các người, các người đem cái nhà của ta đi đâu? Hãy trả nhà lại cho ta, mau lên!"

Khi ấy, nhà Sư biết trị quỷ mới cất tiếng hỏi: "Nhà của ông ư? Nhà của ông ở trong chậu nước ấy, ông vào trong đó mà tìm!" Thế là vị Ðạo-sĩ liền nhảy vào chậu nước, loay hoay tìm kiếm, rồi nói: "Không có!"

Vị Sư nọ điềm nhiên hỏi lại: "Không có à? Thế thì phải ở trong đống lửa đằng kia đấy thôi, ông mau đến đó tìm thử xem!" Ông Ðạo-sĩ lại nhảy vào đống lửa, chạy vô chạy ra sục sạo một lúc lâu, rồi thất vọng la lên: "Cũng không có! Nhà của ta không có trong đống lửa này!"

Bấy giờ vị Sư mới chậm rãi hỏi: "Này ?#244;ng Thượng Tọa? Ông bây giờ xuống nước không chìm, vào lửa không cháy; thế thì ông còn tìm �nhà?để làm gì nữa?!" Nghe nói như thế, vị Ðạo-sĩ chợt khai ngộ: "Ừ nhỉ!" Và từ đó, ngôi chùa nhỏ được yên ổn, không bị ma quỷ quấy rầy nữa, và vị Tỳ-kheo già cùng chú Sa-di cũng không phải dọn đi nơi khác.

Trên đây là một nguy cơ của việc sử dụng công phu "xuất huyền nhập tẫn." Tuy là có thể dạo chơi khắp nơi tùy thích, nhưng nếu không gặp được người thông hiểu hoặc có kinh nghiệm về công phu này, rủi ro bị kẻ khác thiêu mất xác thân của mình, thì sẽ không còn "nhà" mà trở về nữa!

"Tám là không bị chết vì trúng phải độc dược." Loại "ác tử" thứ tám là "chết vì trúng phải độc dược."

Thuở trước, Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma đã từng ăn thức ăn có trộn thuốc độc, và khi Ngài nôn ra lại thì các thức ấy đều biến thành rắn cả?#273;ó là vì những kẻ đố kỵ Ngài đã trộn nọc rắn vào thức ăn để đầu độc Ngài; song nhờ Ngài trì tụng Chú Ðại Bi nên không bị chết bởi thuốc độc. Ngài bị đầu độc đến sáu lần; sau cùng Ngài tự nghĩ: "Cần gì mà phải rắc rối như thế nhỉ? Ta chỉ làm cho người khác thêm sanh ác tâm mà thôi!" Và thế là Tổ Sư Bồ Ðề Ðạt Ma bèn giả vờ bị trúng độc mà chết, chứ sự thật thì Ngài không phải chết vì độc dược; vì sao? Vì Ngài có trì tụng Chú Ðại Bi!

"Chín là không bị chết vì cổ độc tác hại." Loại "ác tử" thứ chín là "chết vì bị cổ độc tác hại." Ở Nam Dương, Singapore, Malaysia, Việt Nam, Thái Lan, và luôn cả ở tỉnh Quảng-đông (Trung Hoa), người ta có luyện được những loại thuốc độc cực mạnh và vô cùng lợi hại, gọi là "cổ độc." Có rất nhiều loại "cổ độc"; có loại chỉ cần ăn một chút xíu nhưng khi vào đến bụng thì nó lại phình to ra, khiến cho nạn nhân bị trướng bụng mà chết. Tuy nhiên, nếu quý vị thành tâm trì tụng Chú Ðại Bi thì không có độc chất nào có thể hại được quý vị.

"Mười là không bị chết vì điên loạn, mất trí." Loại "ác tử" thứ mười là "chết vì bị điên loạn, mất trí." Người trì tụng Chú Ðại Bi thì không bị chết do điên cuồng mê loạn, hoặc do đầu óc không được tỉnh táo.

"Mười một là không bị chết vì núi lở, cây ngã, vách đá sụp." Loại "ác tử" thứ mười một là "chết vì núi lở, cây ngã, vách đá sụp." Những người chuyên tâm trì tụng Chú Ðại Bi thì không bị các cây to ngã xuống đè chết, không bị đá từ trên núi lăn xuống đè chết, và cũng không bị tường thành đổ sập xuống đè chết.

"Mười hai là không bị chết vì kẻ ác thư ếm." Loại "ác tử" thứ mười hai là "chết vì bị kẻ ác thư ếm." Có nhiều kẻ dùng "ác chú" để trù ếm, khiến cho người ta nằm mộng thấy những điều sợ hãi, hoặc dùng tà thuật để "thư" cho người ta chết.

"Kẻ ác thư ếm" tức là kẻ ác ấy có "tà chú" nên có thể âm thầm ám hại người khác; tương tự như trường hợp cô gái Ma Ðăng Già dùng tà chú của phái ngoại đạo "hoàng phát" (tóc vàng) để bắt cóc Tôn-giả A-Nan vậy. Tà chú có thể làm cho đầu óc người ta trở nên mê muội, không còn tri giác, cũng không còn sáng suốt để làm chủ chính mình nữa; do đó bị kẻ dùng chú khống chế, sai sử một cách dễ dàng.

"Mười ba là không bị chết vì tà thần, ác quỷ thừa cơ làm hại." Loại "ác tử" thứ mười ba là "chết vì tà thần, ác quỷ thừa cơ làm hại." Quý vị trì tụng Chú Ðại Bi thì tà thần, ác quỷ không có cơ hội hãm hại hoặc giết chết quý vị.

"Mười bốn là không bị chết vì ác bệnh triền thân." Loại "ác tử" thứ mười bốn là "chết vì ác bệnh triền thân." Người trì tụng Chú Ðại Bi thì không bị mắc phải "ác bệnh." "Ác bệnh" tức là các loại bệnh trầm trọng, ngặt nghèo, như bệnh tê bại, không nhúc nhích được, hoặc các bệnh nan y khác. Cancer (ung thư) cũng thuộc loại "ác bệnh" vậy.

Ở Hồng-kông có một vị Hòa Thượng rất nổi tiếng tên là Ðịnh Tây, ông mắc bệnh cancer và sau hơn một năm thì chết vì "ác bệnh" này. Tôi tin rằng ông ta không thành tâm tin tưởng ở Chú Ðại Bi! Tuy rằng ông bảo người ta tu hành song chính bản thân ông lại chẳng mấy chú ý dụng công tu tập, cho nên mới mắc cancer.

Tôi bảo cho quý vị biết, ông ta là người rất háo danh, ở Hồng-kông chuyên môn "mua danh chuốc tiếng"! Ông rêu rao cùng khắp cả Hồng-kông rằng Pháp Sư Ðộ Luân là đệ tử của ông ta! Thật là hoang đường! Hoàn toàn không có chuyện đó! Tôi với ông ta phải nói là chẳng quen biết, chẳng liên can gì với nhau cả, thậm chí còn ở cách xa nhau cả mấy ngàn dặm đường!

Lúc tôi còn ở Ðông Bắc thì ông ta hoàn toàn không biết gì về tôi cả. Chỉ có sau khi tôi đến Hồng-kông thì số người tín ngưỡng tôi rất đông đảo, ông bèn nói với mọi người rằng tôi là đệ tử của ông! Bởi rất nhiều người tin tưởng tôi, vậy nếu ông ta là sư phụ của tôi thì đương nhiên là ai nấy sẽ càng tôn kính ông ta hơn nữa; cũng tương tự như trường hợp một vị Pháp Sư nọ nói Hư Vân Lão Hòa Thượng là đệ tử của y vậy!

Lúc tôi ở Hồng-kông, có một người họ Trương nọ mắc bệnh cancer mà sáu vị bác sĩ nổi tiếng là cao minh nhất của Hồng-kông thời ấy đều chẩn đoán về bệnh tình của anh ta rằng: "Nội trong một trăm ngày chắc chắn sẽ chết, không thể nào sống nổi!"

Họ Trương này quy y với tôi vào ngày 18 tháng 5 âm lịch, và sau lễ quy y thì tôi có khuyên anh ta nên phát tâm làm chút việc công đức. Tôi nói: "Nếu anh chịu làm đúng theo lời tôi dặn thì tôi bảo đảm rằng không phải chỉ nội trong một trăm ngày, mà ngoài một trăm ngày, anh vẫn chưa phải chết! Nhưng, phải nhớ là làm theo cách tôi đã bảo!" Tức là phải làm gì?

Nhân vì lúc bấy giờ người xuất gia từ Ðại-lục (Trung Quốc) tỵ nạn sang Hồng-kông rất đông, có đến ba, bốn ngàn vị, mà hầu hết đều bị thiếu thốn về mọi mặt; tôi bèn khuyên họ Trương rằng: "Anh nên phát tâm cúng dường mỗi vị xuất gia hai mươi đồng và một súc vải Hoa-kỳ (một súc vải có thể may được tới mấy bộ đồ). Nếu anh có thể làm như thế để kết thiện duyên với những vị xuất gia này, tôi bảo đảm rằng anh sẽ chưa phải chết!"

Họ Trương liền phát nguyện, hứa sẽ y lời. Anh ta còn nói là nếu trong vòng một trăm ngày mà anh ta không chết, thì sẽ bố thí cho tôi hai trăm ngàn Mỹ kim. Anh ta là một người rất giàu có ở Hồng-kông, tài sản có đến bạc tỷ; song đều là do làm ăn bất chánh mà có được.

Ðến kỳ hạn một trăm ngày mà bác sĩ đã chẩn định, họ Trương quả nhiên vẫn chưa chết. Trong thời gian này, vị Hòa Thượng bị cancer mà tôi nói ban nãy (bấy giờ chưa bị cancer), có giúp họ Trương lạy sám hối. Lạy sám gì? Lạy Dược Sư Sám, mỗi tuần mỗi lạy Sám Dược Sư. Thấy đã quá một trăm ngày mà họ Trương vẫn chưa chết, vị Hòa Thượng nọ bèn kể lể với anh ta rằng đó là nhờ công đức bái sám của mình!

Thật ra, chỉ vì họ Trương là người giàu có, chứ nếu là kẻ không có tiền thì ông Hòa Thượng nọ nhất định chẳng chịu bái sám cho! Và rốt cuộc là họ Trương nọ, với tôi thì chẳng thực hiện lời hứa; còn vị Hòa Thượng nọ thì đã có công bái sám nên được tặng cho năm ngàn đồng. Vị Hòa Thượng đó còn nói với họ Trương: "Năm ngàn đồng này là phí tổn hành lễ bái sám, nhờ công đức bái sám này mà anh khỏi phải chết đấy!"

Người họ Trương này chính là Trương Ngọc Giai. Sau đó, họ Trương sống thêm được tám năm nữa. Vào tháng giêng năm ấy, nhân ngày đầu năm, tôi nói với mọi người rằng: "Năm nay, nếu Trương Ngọc Giai có gặp phải chuyện gì mà đến khẩn cầu tôi, thì cho dù anh ta có quỳ trước cửa đến ba năm đi nữa, tôi cũng chẳng ngó ngàng tới!"

Bởi tôi chờ đợi đã tám năm rồi mà anh ta vẫn chưa chịu thực hiện lời nguyện. Tôi không thể xem đó như món nợ, phải đi đòi: "Anh chưa chết, thế thì phải đưa tôi hai trăm ngàn Mỹ kim!" Tôi không làm như thế được, cho nên tôi chỉ tuyên bố: "Tôi đợi đã tám năm rồi mà anh ta vẫn không phát tâm; vậy bắt đầu từ hôm nay trở đi, nếu có bất cứ chuyện gì xảy ra cho Trương Ngọc Giai, tôi đều không biết đến!"

Sau khi tôi tuyên bố như thế chưa được bao lâu, Trương Ngọc Giai bịnh nặng trở lại và lâm vào tình trạng nguy kịch. Họ Trương bèn bảo người nhà đến tìm tôi, nhưng bao nhiêu lần tôi đều từ chối không gặp, thậm chí không mở cửa cho họ vào nữa: "Các người đến tìm tôi, song tôi không muốn tiếp các người!" Ðây là một việc mà hầu hết những người xuất gia ở Hồng-kông chẳng mấy ai làm được! Người giàu có như thế đến thăm mà còn không chịu tiếp, không cho gặp mặt, thì thật là... không thể hiểu nổi!!! Cho nên tôi bị rất nhiều người phê bình: "Thật là không thông hiểu Phật Pháp gì cả! Người ta tới xin gặp mà cứ không chịu cho gặp!"

Có một lần, họ Trương cho người mang đến tặng tôi hai trăm đồng, tôi ném tiền ra ngoài cửa trả lại cho y. Do đó, những người xuất gia ở chỗ vị Hòa Thượng nọ đều bất bình và chỉ trích tôi: "Ông ta không phải là người xuất gia! Người ta cúng dường mà không chịu nhận, lại còn ném trả lại nữa; tại sao ông ta lại quá quắt đến thế? Thật là chẳng biết điều chút nào!"

Khoảng chừng ba tháng sau thì Trương Ngọc Giai chết vì chứng cancer. Chẳng bao lâu sau thì vị Hòa Thượng nọ cũng bị cancer, bấy giờ có ai bái sám cho ông ta thì ông cũng không khỏi bệnh được. Ông ta có thể bái sám cho người khác được khỏi bệnh; thế mà bây giờ tất cả Hòa Thượng ở Hồng-kông đều bái sám, niệm Phật cho ông ta, thì lại không linh nghiệm, bệnh ông ta vẫn không thuyên giảm. Sau đó khoảng hơn một năm thì ông "Sư-phụ giả mạo" của tôi tạ thế. Ðó cũng là "chết vì ác bệnh triền thân" vậy.

"Mười lăm là không bị chết vì tự sát, tự tử." Loại "ác tử" thứ mười lăm là "chết vì tự sát, tự tử."

"Tự sát, tự tử" (phi phận tự hại) tức là tự đi tìm cái chết cho mình bằng cách uống thuốc độc, treo cổ, nhảy xuống giếng, lao xuống biển... hoặc vô số cách khác, vì chính mình không còn muốn sống nữa. Người trì tụng Chú Ðại Bi thì không bao giờ tự hủy hoại đời mình.

 

KINH VĂN:

Âm: "TỤNG TRÌ ÐẠI BI THẦN CHÚ GIẢ, BẤT BỊ NHƯ THỊ THẬP NGŨ CHỦNG ÁC TỬ DÃ, ÐẮC THẬP NGŨ CHỦNG THIỆN SANH GIẢ:

NHẤT GIẢ, SỞ SANH CHI XỨ, THƯỜNG PHÙNG THIỆN VƯƠNG;

NHỊ GIẢ, THƯỜNG SANH THIỆN QUỐC;

TAM GIẢ, THƯỜNG TRỊ HẢO THỜI;

TỨ GIẢ, THƯỜNG PHÙNG THIỆN HỮU;

NGŨ GIẢ, THÂN CĂN THƯỜNG ÐẮC CỤ TÚC;

LỤC GIẢ, ÐẠO TÂM THUẦN THỤC;

THẤT GIẢ, BẤT PHẠM CẤM GIỚI;

BÁT GIẢ, SỞ HỮU QUYẾN THUỘC, ÂN NGHĨA HÒA THUẬN;

CỬU GIẢ, TƯ CỤ TÀI THỰC, THƯỜNG ÐẮC PHONG TÚC;

THẬP GIẢ, HẰNG ÐẮC THA NHÂN CUNG KÍNH PHÙ TIẾP;

THẬP NHẤT GIẢ, SỞ HỮU TÀI BẢO, VÔ THA KIẾP ÐOẠT;

THẬP NHỊ GIẢ, Ý DỤC SỞ CẦU, GIAI TẤT XƯNG TOẠI;

THẬP TAM GIẢ, LONG THIÊN THIỆN THẦN HẰNG THƯỜNG ỦNG VỆ;

THẬP TỨ GIẢ, SỞ SANH CHI XỨ, KIẾN PHẬT VĂN PHÁP;

THẬP NGŨ GIẢ, SỞ VĂN CHÁNH PHÁP, NGỘ THẬM THÂM NGHĨA."

 

Nghĩa: "Người nào tụng trì Thần Chú Ðại Bi thì chẳng những không bị mười lăm loại ác tử như thế, mà còn sẽ được mười lăm loại thiện sanh:

Một là sanh ra ở nơi thường gặp bậc thiện vương;

Hai là thường sanh ra ở thiện quốc;

Ba là thường gặp thời đại tốt;

Bốn là thường gặp thiện hữu;

Năm là thân căn thường được đầy đủ;

Sáu là Ðạo tâm thuần thục;

Bảy là không phạm cấm giới;

Tám là tất cả quyến thuộc đều hòa thuận, có ân nghĩa;

Chín là đồ dùng, tiền tài, vật thực thường được đầy đủ;

Mười là luôn được người khác cung kính, giúp đỡ;

Mười một là tiền của châu báu không bị kẻ khác cướp đoạt;

Mười hai là những việc mong cầu đều được toại nguyện;

Mười ba là long, thiên, thiện thần thường theo ủng hộ;

Mười bốn là sanh ở nơi nào cũng được thấy Phật nghe Pháp;

Mười lăm là được nghe Chánh Pháp và tỏ ngộ nghĩa lý thâm sâu."

 

LƯỢC GIẢNG:

Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch cùng Ðức Thế Tôn: "Người nào tụng trì Thần Chú Ðại Bi thì không bị mười lăm loại ác tử như vậy, mà sẽ được mười lăm loại thiện sanh." Mười lăm thứ "thiện sanh" đó là gồm những gì?

"Một là sanh ra ở nơi thường gặp bậc thiện vương." Nếu quý vị tụng trì Chú Ðại Bi thì sẽ được sanh trưởng ở những đất nước có vị quốc vương biết tu Ngũ Giới và hành Thập Thiện.

"Hai là thường sanh ra ở thiện quốc." "Thiện quốc" tức là một đất nước không có chiến tranh loạn lạc, không có giặc giã đao binh, không có lũ lụt, hỏa hoạn, và cũng không có các bệnh dịch hoành hành. Ngoài ra, dân chúng ở đất nước đó đều là những người rất lương thiện, ai nấy đều chung sống thuận hòa chứ không tàn sát lẫn nhau.

"Ba là thường gặp thời đại tốt." Trì tụng Ðại Bi Chú, quý vị sẽ được sanh vào thời thái bình thịnh trị, không gặp cảnh chiến tranh giặc giã.

"Bốn là thường gặp thiện hữu." "Thiện hữu" tức là những người bạn tốt, biết khuyến khích quý vị học tập Phật Pháp, chăm chỉ tu hành.

"Năm là thân căn thường được đầy đủ." Nếu quý vị thường niệm Chú Ðại Bi thì sáu căn�mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý�của quý vị đều vô cùng xinh đẹp, viên mãn.

"Sáu là Ðạo tâm thuần thục." "Thuần" tức là thuần nhất, không hỗn tạp, không xen lẫn gì cả. "Thục" tức là thành thục, chín muồi. Vậy, nếu quý vị tụng trì Chú Ðại Bi, thì cái tâm thuần thành tu Ðạo của quý vị chẳng những kiên cố mà còn sắp thành thục nữa.

"Bảy là không phạm cấm giới." Phàm là tu Ðạo, quý vị hễ thọ giới nào rồi thì không được vi phạm giới đó. Trong Giới Luật có bảo quý vị chớ làm việc gì đó song quý vị vẫn cứ làm, như thế là "phạm cấm giới" vậy.

"Tám là tất cả quyến thuộc đều hòa thuận, có ân nghĩa." Tất cả bà con họ hàng của gia đình quý vị đều biết cảm ân báo đức lẫn nhau; quý vị tử tế với họ và họ cũng tử tế với quý vị, không ai có lòng ích kỷ hoặc mưu đồ lợi lộc riêng tư.

"Chín là đồ dùng, tiền tài, vật thực thường được đầy đủ." Quý vị được sở hữu rất nhiều tài bảo, vật dụng, đồ ăn thức uống; và luôn luôn sống trong sự sung túc, dư dả, không bao giờ bị thiếu thốn.

"Mười là luôn được người khác cung kính, giúp đỡ." Hễ ai gặp quý vị cũng đều tỏ ra cung kính và sẵn lòng giúp đỡ quý vị.

"Mười một là tiền của châu báu không bị kẻ khác cướp đoạt." Các tài bảo của riêng quý vị thì không bị người khác đến tranh giành, cướp đoạt.

"Mười hai là những việc mong cầu đều được toại nguyện." Quý vị ao ước điều gì thì cũng đều được thỏa mãn, vừa lòng đẹp ý.

"Mười ba là long, thiên, thiện thần thường theo ủng hộ." Thiên, long, bát bộ, cùng tất cả thiện thần đều luôn luôn phù hộ, che chở cho quý vị.

"Mười bốn là sanh ở nơi nào cũng được thấy Phật nghe Pháp." Nếu quý vị trì tụng Chú Ðại Bi thì sanh ra ở xứ sở nào cũng đều được thấy Phật và được nghe Pháp. Nay tuy Ðức Phật đã nhập Niết-bàn, song chúng ta trông thấy tượng Phật thì cũng như được "thấy Phật," và nghe giảng Phật Pháp tức là được "nghe Pháp" vậy.

"Mười lăm là được nghe Chánh Pháp và tỏ ngộ nghĩa lý thâm sâu." Những điều quý vị được nghe thì đều thuộc về Chánh Pháp, và quý vị có thể hiểu được những đạo lý rất thâm sâu.

 

KINH VĂN:

Âm: "NHƯỢC HỮU TỤNG TRÌ ÐẠI BI TÂM ÐÀ-LA-NI GIẢ, ÐẮC NHƯ THỊ ÐẲNG THẬP NGŨ CHỦNG THIỆN SANH DÃ, NHẤT THIẾT THIÊN NHÂN, ƯNG THƯỜNG TỤNG TRÌ, VẬT SANH GIẢI ÐÃI."

Nghĩa: "Nếu người nào trì tụng Ðại Bi Tâm Ðà-La-Ni thì sẽ được mười lăm chỗ thiện sanh như thế. Tất cả hàng Trời, người nên thường xuyên trì tụng, chớ sanh biếng nhác!"

 

LƯỢC GIẢNG:

"Nếu người nào trì tụng Ðại Bi Tâm Ðà-La-Ni thì sẽ được mười lăm chỗ thiện sanh như thế. Tất cả hàng Trời, người, nên thường xuyên trì tụng, chớ sanh biếng nhác!" Hết thảy thiên nhân trên các cõi trời cũng như loài người chúng ta ở chốn nhân gian đều nên chuyên cần trì tụng Chú Ðại Bi, và phải nhớ kỹ là đừng lười biếng, xao lãng! Chúng ta cần phải nhớ là chớ nên tham ăn, tham ngủ! Nếu quý vị có thể chú trọng việc trì niệm Chú Ðại Bi như việc ăn uống, quan tâm đến việc trì tụng Chú Ðại Bi như việc ngủ nghỉ, thì tốt biết bao: "Hễ hôm nào mà không tụng Chú Ðại Bi là tôi cảm thấy như thiếu ăn thiếu ngủ vậy!"

Quý vị hãy xem việc trì niệm Chú Ðại Bi cũng thiết yếu như việc ăn uống, ngủ nghỉ; chớ nên giải đãi, lười biếng. Chuyển cái tâm thích ăn thành cái tâm thích trì tụng Chú Ðại Bi, đổi cái tâm thích ngủ thành cái tâm thiết tha tụng trì Ðại Bi Chú; quý vị xem, như thế chẳng phải là kỳ diệu sao?


Kinh Văn:

QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT THUYẾT THỊ NGỮ DĨ, Ư CHÚNG HỘI TIỀN, HỢP CHƯỞNG CHÁNH TRỤ, Ư CHƯ CHÚNG SANH, KHỞI ĐẠI BI TÂM, KHAI NHAN HÀM TIẾU, TỨC THUYẾT NHƯ THỊ QUẢNG ĐẠI VIÊN MÃN VÔ NGẠI ĐẠI BI TÂM ĐÀ-LA-NI THẦN DIỆU CHƯƠNG CÚ. ĐÀ-LA-NI VIẾT: ...

Nghĩa: Quán Thế Âm Bồ-tát nói lời ấy rồi, liền ở trước chúng hội chắp tay đứng thẳng, đối với chúng sanh khởi lòng từ bi, tươi mặt cười nụ, tuyên thuyết chương cú thần diệu Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà-La-Ni. Đà-La-Ni đó như vầy: ...

Lược giảng:

Quán Thế Âm Bồ-tát nói lời ấy rồi, liền ở trước chúng hội chắp tay đứng thẳng, đối với chúng sanh khởi lòng từ bi, tươi mặt cười nụ... “Tươi mặt cười nụ” tức là miệng cười chúm chím, nét mặt lộ vẻ hân hoan. Nếu mặt mày quạu quọ, lầm lì nhăn nhó, thì gọi là “xụ mặt.” Quý vị cần phải rạng rỡ tươi vui, chứ đừng nên lúc nào cũng mặt ủ mày chau, hoặc sầm đen lại như đang giận ai vậy. (Ở Trung Hoa có ông Bao Công mặt sắt đen sì, song đó không phải là dấu hiệu của sự giận dữ!)

Lúc bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ-tát chắp hai tay lại và đứng ngay ngắn trước mặt Đức Phật cùng đại chúng, rồi sanh lòng đại từ đại bi thương xót tất cả chúng sanh, Ngài tươi cười rạng rỡ và lập tức tuyên thuyết chương cú thần diệu Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà-La-Ni. Đà-La-Ni đó như vầy: ...

Kinh Văn:

NAM MÔ HẮC RA ĐÁT NA ĐA RA DẠ DA. NAM MÔ A RỊ DA. BÀ LÔ KIẾT ĐẾ, THƯỚC BÁT RA DA. BỒ ĐỀ TÁT ĐỎA BÀ DA. MA HA TÁT ĐỎA BÀ DA. MA HA CA LÔ NI CA DA. ÁN. TÁT BÀN RA PHẠT DUỆ. SÓC ĐÁT NA ĐÁT TẢ. NAM MÔ TẤT KIẾT LẬT ĐỎA Y MÔNG A RỊ DA. BÀ LÔ KIẾT ĐẾ THẤT PHẬT RA LĂNG ĐÀ BÀ. NAM MÔ NA RA CẨN TRÌ. HÊ RỊ MA HA BÀN ĐA SA MẾ. TÁT BÀ A THA ĐẬU DU BẰNG. A THỆ DỰNG. TÁT BÀ TÁT ĐÁ, NA MA BÀ TÁT ĐA, NA MA BÀ GIÀ. MA PHẠT ĐẶC ĐẬU. ĐÁT ĐIỆT THA. ÁN, A BÀ LÔ HÊ. LÔ CA ĐẾ. CA RA ĐẾ. DI HÊ RỊ. MA HA BỒ ĐỀ TÁT ĐỎA. TÁT BÀ TÁT BÀ. MA RA MA RA. MA HÊ MA HÊ, RỊ ĐÀ DỰNG. CU LÔ CU LÔ YẾT MÔNG. ĐỘ LÔ ĐỘ LÔ, PHẠT GIÀ RA ĐẾ. MA HA PHẠT GIÀ DA ĐẾ. ĐÀ LA ĐÀ LA. ĐỊA LỴ NI. THẤT PHẬT RA DA. GIÁ RA GIÁ RA. MA MA PHẠT MA RA. MỤC ĐẾ LỆ. Y HÊ DI HÊ. THẤT NA THẤT NA. A RA SAM PHẬT RA XÁ LỢI. PHẠT SA PHẠT SAM. PHẬT RA XÁ DA. HÔ LÔ HÔ LÔ MA RA. HÔ LÔ HÔ LÔ HÊ RỊ. TA RA TA RA. TẤT LỴ TẤT LỴ. TÔ RÔ TÔ RÔ. BỒ ĐỀ DẠ, BỒ ĐỀ DẠ. BỒ ĐÀ DẠ, BỒ ĐÀ DẠ. DI ĐẾ RỊ DẠ. NA RA CẨN TRÌ. ĐỊA LỴ SẮT NI NA. BA DẠ MA NA. TA BÀ HA. TẤT ĐÀ DẠ. TA BÀ HA. MA HA TẤT ĐÀ DẠ. TA BÀ HA. TẤT ĐÀ DU NGHỆ. THẤT BÀN RA DẠ. TA BÀ HA. NA RA CẨN TRÌ. TA BÀ HA. MA RA NA RA. TA BÀ HA. TẤT LỖ TĂNG A MỤC KHƯ DA. TA BÀ HA. TA BÀ MA HA A TẤT ĐÀ DẠ. TA BÀ HA. GIẢ CÁT RA A TẤT ĐÀ DẠ. TA BÀ HA. BA ĐÀ MA YẾT TẤT ĐÀ DẠ. TA BÀ HA. NA RA CẨN TRÌ, BÀN GIÀ RA DA. TA BÀ HA. MA BÀ LỢI THẮNG, YẾT RA DA. TA BÀ HA. NAM MÔ HẮC RA ĐÁT NA ĐA RA DẠ DA. NAM MÔ A LỊ DA. BÀ LÔ KIẾT ĐẾ. THƯỚC BÀN RA DẠ. TA BÀ HA. ÁN, TẤT ĐIỆN ĐÔ. MẠN ĐÀ RA. BẠT ĐÀ DA. TA BÀ HA.

Lược giảng:

Hiện tại chúng ta đang nghiên cứu Kinh Đại Bi Đà La Ni, do đó tạm thời chưa giảng đến bài Chú Đại Bi này. Chỉ riêng một bài Chú này thôi cũng phải cần rất nhiều thời gian mới giảng giải cho tường tận được; do đó, bây giờ tôi chỉ giảng phần Kinh văn, còn ý nghĩa của Chú (Chú nghĩa) thì để khi nào có cơ hội tôi sẽ giải thích cặn kẽ sau. Và, luôn cả Chú Lăng Nghiêm cũng vậy, trong tương lai, nếu có cơ duyên thuận tiện thì tôi sẽ giảng nghĩa cho quý vị nghe; còn hôm nay thì tôi chỉ giải thích sơ lược về câu đầu và câu cuối của bài Chú Đại Bi này mà thôi.

Câu đầu tiên của Chú Đại Bi là “Nam Mô Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da.” 

“Nam mô” có nghĩa là quy y, quay về nương tựa; do đó câu chú trên trở thành “Quy y Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da,” và có nghĩa là “quy y tận hư không, biến Pháp Giới, thập phương tam thế, vô tận vô tận Tam Bảo” (con về nương tựa vô lượng vô biên Tam Bảo ở tận cùng hư không và khắp cả Pháp Giới trong mười phương ba đời). Nói theo đồ hình thì đây là bổn thân của Quán Thế Âm Bồ-tát. Nếu quý vị trì niệm câu chú này thì Quán Thế Âm Bồ-tát sẽ giúp cho mọi sở cầu của quý vị đều được toại nguyện, viên mãn như ý. 

Câu cuối cùng của bài Chú Đại Bi là “Án Tất Điện Đô. Mạn Đà Ra. Mạt Đà Da. Ta Bà Ha.” Câu này nghĩa là gì? Câu này hàm ý là tất cả mọi nguyện vọng thiết tha của hành giả đều sẽ mau chóng được thành tựu. Quý vị trì niệm câu Chú này thì những điều nguyện ước hoặc hy vọng của quý vị sẽ không những được thành tựu mà còn thành tựu một cách nhanh chóng nữa.

Trên đây là sơ lược về ý nghĩa của câu đầu và câu cuối của bài Chú Đại Bi.

Kinh Văn:

QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT THUYẾT THỬ CHÚ DĨ, ĐẠI ĐỊA LỤC BIẾN CHẤN ĐỘNG, THIÊN VŨ BẢO HOA, TÂN PHÂN NHI HẠ. THẬP PHƯƠNG CHƯ PHẬT, TẤT GIAI HOAN HỶ. THIÊN MA NGOẠI ĐẠO, KHỦNG BỐ MAO THỤ. NHẤT THIẾT CHÚNG HỘI, GIAI HOẠCH QUẢ CHỨNG: HOẶC ĐẮC TU-ĐÀ-HOÀN QUẢ, HOẶC ĐẮC TƯ-ĐÀ-HÀM QUẢ, HOẶC ĐẮC A-NA-HÀM QUẢ, HOẶC ĐẮC A-LA-HÁN QUẢ, HOẶC ĐẮC NHẤT ĐỊA, NHỊ ĐỊA, TAM ĐỊA, TỨ ĐỊA, NGŨ ĐỊA, NÃI CHÍ THẬP ĐỊA GIẢ. VÔ LƯỢNG CHÚNG SANH PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM.

Nghĩa: Quán Thế Âm Bồ-tát tuyên thuyết Chú này xong, đại địa chấn động sáu cách, trời mưa hoa báu xuống lả tả, mười phương chư Phật thảy đều hoan hỷ; thiên ma ngoại đạo sợ hãi đến dựng lông tóc. Tất cả chúng hội đều được quả chứng—hoặc đắc quả Tu-đà-hoàn, hoặc đắc quả Tư-đà-hàm, hoặc đắc quả A-na-hàm, hoặc đắc quả A-la-hán, hoặc đắc Nhất Địa, Nhị Địa, Tam Địa, Tứ Địa, Ngũ Địa, cho đến Thập Địa; vô lượng chúng sanh phát Bồ Đề tâm.

Lược giảng:


Quán Thế Âm Bồ-tát tuyên thuyết Chú này xong, đại địa chấn động sáu cách ... “Đại địa” (cõi đất lớn) tức là mặt đất mà chúng sanh chúng ta đang cư ngụ. Như đã đề cập trong phần trước, sáu loại chấn động của đại địa (lục chủng chấn động) là chấn, hống, kích, động, dũng và khởi. 

1) Chấn tức là chấn động (vang dội, rúng động); 
2) Hống là gầm rống, gào thét; 
3) Kích có nghĩa là va chạm, đập vào nhau.
Chấn, hống và kích là những chấn động thuộc về âm thanh.
4) Động tức là động cựa hướng về phía trên; 
5) Dũng là dũng hiện, hàm ý phun vọt lên trên; 
6) Khởi tức là vùng dậy, khởi lên. 

Động, dũng và khởi là những chấn động về mặt hình thể.

Sáu loại chấn động này lại có thể biến chuyển thành mười tám thứ chấn động khác nhau mà trước đây tôi đã có giảng rồi, và tôi tin rằng quý vị vẫn còn nhớ cho nên không cần phải giảng tỉ mỉ lại nữa!

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng chấn động của đại địa. Sáu loại chấn động có thể xảy ra do: 1) ở thế gian có người thành Phật; 2) có người chứng đắc quả vị A-la-hán; 3) có chư Phật hoặc Bồ-tát tuyên thuyết kinh điển Đại Thừa. 
Ba sự kiện trên là thuộc về phương diện thiện (điềm lành) và khi xảy ra thì cả đại địa đều chấn động sáu cách. Ngoài ra, địa chấn cũng có thể xảy ra do: 1) có Ma-vương xuất hiện (Ma-vương có thể dùng ma lực của mình để làm cho đại địa biến thành chấn động sáu cách); 2) có thiên tai nhân họa xảy ra bởi nghiệp cảm của chúng sanh; 3) trời đất phát sinh tai biến.
Địa chấn thì có loại tốt, có loại không tốt. Địa chấn xảy ra bởi ba nguyên nhân đầu thì không gây tổn hại gì cho nhân loại cả; còn địa chấn bởi ba nguyên nhân sau thì đều là những tai họa đối với loài người. Thế nhưng, mức độ tác hại do địa chấn gây ra, như tôi vừa nói ban nãy, còn tùy thuộc vào nghiệp cảm của chúng sanh nữa. Mặc dù nói rằng nếu nghiệp lực của chúng sanh quá nặng thì biến cố sẽ xảy ra, nhưng nếu ở nơi đáng lẽ phải có tai ương giáng xuống đó mà có bậc thánh nhân—Phật, Bồ-tát, A-la-hán—ra đời, thì tai ương của nơi đó có thể sẽ chuyển dời sang nơi khác, hoặc có thể từ họa lớn biến thành họa nhỏ, hoặc từ họa nhỏ biến thành tiêu tan. Cho nên, ở thế gian này chẳng có gì là nhất định cả.
Vừa rồi chỉ là sơ lược về ý nghĩa cùng tình hình của hiện tượng địa chấn; nếu đi sâu vào chi tiết, thì còn có rất nhiều quan hệ và nguyên nhân vi tế khác vô cùng phức tạp.

Trời mưa hoa báu xuống lả tả. Các thiên nữ ở cõi trời đua nhau rải hoa báu xuống, cứ hết đóa này đến đóa khác liên tiếp rơi xuống như mưa.

Mười phương chư Phật thảy đều hoan hỷ; thiên ma ngoại đạo sợ hãi đến dựng lông tóc. Lúc bấy giờ, tất cả chư Phật trong mười phương đều sanh tâm hoan hỷ; còn các Ma-vương và hàng ngoại đạo trên cõi trời thì đều rùng mình khiếp sợ, sợ đến nỗi bao nhiêu lông tóc đều dựng đứng lên cả.

Tất cả chúng hội đều được quả chứng—hoặc đắc quả Tu-đà-hoàn, hoặc đắc quả Tư-đà-hàm, hoặc đắc quả A-na-hàm, hoặc đắc quả A-la-hán. Sau khi nghe Quán Thế Âm Bồ-tát tuyên thuyết Chú Đại Bi xong, trong đại chúng có rất nhiều vị chứng được Sơ Quả A-la-hán, Nhị Quả A-la-hán, Tam Quả A-la-hán hoặc Tứ Quả A-la-hán.

Hoặc đắc Nhất Địa, Nhị Địa, Tam Địa, Tứ Địa cho đến Thập Địa. Lại nữa, trong Pháp Hội cũng có rất nhiều vị chứng đắc được các địa vị của Bồ-tát Đại Thừa như Nhất Địa (Hoan Hỷ Địa), Nhị Địa (Ly Cấu Địa), Tam Địa (Phát Quang Địa), Tứ Địa (Diệm Huệ Địa), Ngũ Địa (Nan Thắng Địa), Lục Địa (Hiện Tiền Địa), Thất Địa (Viễn Hành Địa), Bát Địa (Bất Động Địa), Cửu Địa (Thiện Huệ Địa), và Thập Địa (Pháp Vân Địa).

Vô lượng chúng sanh phát Bồ Đề tâm. Ngoài ra, ngay lúc ấy còn có vô lượng vô biên chúng sanh phát khởi tâm Bồ-Đề rộng lớn.

Kinh Văn:

NHĨ THỜI, ĐẠI PHẠM THIÊN VƯƠNG TÙNG TÒA NHI KHỞI, CHỈNH LÝ Y PHỤC, HỢP CHƯỞNG CUNG KÍNH, BẠCH QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT NGÔN: “THIỆN TAI, ĐẠI SĨ! NGÃ TÙNG TÍCH LAI, KINH VÔ LƯỢNG PHẬT HỘI, VĂN CHỦNG CHỦNG PHÁP, CHỦNG CHỦNG ĐÀ-LA-NI, VỊ TẰNG VĂN THUYẾT NHƯ THỬ VÔ NGẠI ĐẠI BI TÂM ĐẠI BI ĐÀ-LA-NI THẦN DIỆU CHƯƠNG CÚ. DUY NGUYỆN ĐẠI SĨ, VI NGÃ THUYẾT THỬ ĐÀ-LA-NI HÌNH MẠO TRẠNG TƯỚNG, NGÃ ĐẲNG ĐẠI CHÚNG, NGUYỆN NHẠO DỤC VĂN.”

Nghĩa: Lúc bấy giờ Đại Phạm Thiên Vương từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục cho chỉnh tề, cung kính chắp tay, bạch cùng Quán Thế Âm Bồ-tát rằng: “Lành thay, Đại Sĩ! Từ trước đến nay, tôi đã trải qua vô lượng Phật Hội, được nghe vô số Phật Pháp và vô số môn Đà-La-Ni, song chưa từng được nghe tuyên thuyết chương cú thần diệu Vô Ngại Đại Bi Tâm Đại Bi Đà-La-Ni như thế này. Chỉ mong Đại Sĩ vì tôi mà nói về hình mạo tướng trạng của Đà-La-Ni ấy; tôi cùng đại chúng đều ưa thích muốn nghe.”

Lược giảng:


Lúc bấy giờ Đại Phạm Thiên Vương từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục cho chỉnh tề... Quý vị đều có biết đôi chút về vị Đại Phạm Thiên Vương này. Đại Phạm Thiên Vương có ba con mắt, tay cầm phất trần màu trắng (bạch phất), và cỡi con trâu trắng (bạch ngưu). Ngài ngồi Thiền, ngủ nghỉ ngay trên mình trâu và cảm thấy rất tự tại, rất thú vị; bởi Ngài nhận thấy mình được ung dung tự tại nhất, cho nên nơi Ngài ở được gọi là Đại Tự Tại Thiên, một cảnh trời cao nhất trong Sắc Giới Thiên.

Vậy, sau khi đứng dậy và vuốt lại vạt áo thiên y không phải khâu may của mình cho ngay ngắn rồi, Đại Phạm Thiên Vương cung kính chắp tay, bạch cùng Quán Thế Âm Bồ-tát rằng: “Lành thay, Đại Sĩ! Ngài quả là một vị Bồ-tát vĩ đại nhất! Từ trước đến nay, tôi đã trải qua vô lượng Phật Hội. Tôi đã từng được tham dự vô lượng vô biên Phật Hội, số nhiều đến không thể đếm xuể, đồng thời tôi cũng được nghe vô số Phật Pháp và vô số môn Đà-La-Ni, vô số Tổng Trì, song chưa từng được nghe tuyên thuyết chương cú thần diệu Vô Ngại Đại Bi Tâm Đại Bi Đà-La-Ni như thế này. Tôi chưa bao giờ được nghe thấy một chương cú thần diệu, nhiệm mầu như Thần Chú Đại Bi này.

Chỉ mong Đại Sĩ vì tôi mà nói về hình mạo tướng trạng của Đà-La-Ni ấy. Tôi cùng đại chúng đều ưa thích muốn nghe. Hiện nay toàn thể đại chúng chúng tôi ở trong Pháp Hội này đều thiết tha mong được lắng nghe Đại Sĩ nói rõ về hình tướng của Chú Tổng Trì này!”

Kinh Văn:

QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT CÁO PHẠM VƯƠNG NGÔN: “NHỮ VI PHƯƠNG TIỆN LỢI ÍCH NHẤT THIẾT CHÚNG SANH CỐ, TÁC NHƯ THỊ VẤN, NHỮ KIM THIỆN THÍNH, NGÔ VI NHỮ ĐẲNG, LƯỢC THUYẾT THIỂU NHĨ.”

Nghĩa: Quán Thế Âm Bồ-tát bảo Phạm Vương rằng: “Ông vì phương tiện lợi ích cho tất cả chúng sanh nên hỏi như thế; vậy nay Ông hãy khéo lắng nghe, Ta sẽ vì các Ông mà lược thuyết đôi điều.”

Lược giảng:


Quán Thế Âm Bồ-tát bảo Phạm Vương rằng: “Ông vì phương tiện lợi ích cho tất cả chúng sanh nên hỏi như thế; vậy nay Ông hãy khéo lắng nghe, Ta sẽ vì các Ông mà lược thuyết đôi điều.” 

Bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ-tát nói với Đại Phạm Thiên Vương rằng: “Vì muốn đem lại sự lợi ích cho hết thảy chúng sanh nên Ông mới đến đây nghe Pháp và đặt câu hỏi như thế. Vậy, Đại Phạm Thiên Vương ơi! Bây giờ Ông hãy chú ý lắng nghe, Ta sẽ vì đại chúng các Ông mà nói sơ lược đôi chút về đạo lý này!”

Kinh Văn:

QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT NGÔN: “ĐẠI TỪ BI TÂM THỊ, BÌNH ĐẲNG TÂM THỊ, VÔ VI TÂM THỊ, VÔ NHIỄM TRƯỚC TÂM THỊ, KHÔNG QUÁN TÂM THỊ, CUNG KÍNH TÂM THỊ, TỲ HẠ TÂM THỊ, VÔ TẠP LOẠN TÂM THỊ, VÔ KIẾN THỦ TÂM THỊ, VÔ THƯỢNG BỒ-ĐỀ TÂM THỊ. ĐƯƠNG TRI NHƯ THỊ ĐẲNG TÂM, TỨC THỊ ĐÀ-LA-NI TƯỚNG MẠO, NHỮ ĐƯƠNG Y THỬ NHI TU HÀNH CHI!”

ĐẠI PHẠM VƯƠNG NGÔN: “NGÃ ĐẲNG ĐẠI CHÚNG, KIM THỦY THỨC THỬ ĐÀ-LA-NI TƯỚNG MẠO, TÙNG KIM THỌ TRÌ, BẤT CẢM VONG THẤT.”

Nghĩa: Quán Thế Âm Bồ-tát bảo: “Đó là tâm Đại Từ Bi, là tâm Bình Đẳng, là tâm Vô Vi, là tâm Vô Nhiễm Trước, là tâm Không Quán, là tâm Cung Kính, là tâm Tỳ Hạ, là tâm Vô Tạp Loạn, là tâm Vô Kiến Thủ, là tâm Vô Thượng Bồ Đề. Nên biết các thứ tâm ấy đều là tướng mạo của môn Đà-La-Ni này; vậy ông nên y theo đó mà tu hành.”

Đại Phạm Vương thưa rằng: “Tôi và đại chúng nay mới được biết đến tướng mạo của môn Đà-La-Ni này. Từ nay chúng tôi xin thọ trì, chẳng dám quên lãng.”

Lược giảng:


Quán Thế Âm Bồ-tát bảo Đại Phạm Thiên Vương rằng: “Ông muốn biết Đại Bi Tâm Đà-La-Ni là gì ư? Ta nói cho Ông rõ: Đó là tâm Đại Từ Bi.

Đại Từ Bi Tâm chính là Đại Bi Tâm Đà-La-Ni. Lòng “từ” có thể ban vui, tâm “bi” có thể cứu khổ; do đó nếu quý vị có được lòng từ bi bao la, rộng lớn thì đó chính là Chú Đại Bi vậy. Quý vị đã nghe rõ cả chưa? Đại Bi Tâm chính là Đại Bi Chú, Đại Bi Chú chính là Đại Bi Tâm. Quý vị có tâm Đại Bi tức là quý vị đang niệm Chú Đại Bi; nếu quý vị không có tâm Đại Bi tức là quý vị chưa niệm Chú Đại Bi vậy!

Hằng ngày, cho dù từ sáng đến tối quý vị luôn lầm rầm tụng niệm: “Nam Mô Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da…,” nhưng nếu quý vị không có lòng đại từ đại bi thì đó không phải là niệm Chú Đại Bi. Trái lại, nếu quý vị chẳng hề niệm Chú Đại Bi, song thâm tâm lúc nào cũng tồn giữ tấm lòng đại từ đại bi, thì đó chính là quý vị đang trì niệm Chú Đại Bi vậy! Quý vị hiểu rõ cả rồi chứ? Cho nên, song song với việc niệm Chú, quý vị cần phải nuôi dưỡng cái tâm Đại Từ Bi nữa, như thế mới là chân chánh niệm Chú!

“Là tâm Bình Đẳng.” Chú Đại Bi là gì? Đó là cái tâm bình đẳng, cái tâm không phân biệt. Tâm bình đẳng là một cái tâm “vô đảng vô thiên” (không phe nhóm, chẳng thiên vị); và cái tâm ấy chính là Chú Đại Bi.

Chúng ta không nên niệm Chú Đại Bi với lòng ích kỷ, phân biệt: “Người này là anh em của tôi thì tôi phải gần gũi anh ta hơn. Cô kia là bạn của tôi, thì tôi phải thân thiết với cô ta hơn. Người ấy không có quen biết gì với tôi cả, vậy tôi nên tránh xa hắn...”; bởi như thế tức là không có tâm bình đẳng.

“Bình đẳng” tức là đối với anh em ruột thịt cũng vậy mà không phải là anh em ruột thịt thì cũng vậy—chúng ta xem tất cả đều như nhau, chẳng hề phân biệt thân sơ. Đối với bạn bè, anh em, và ngay cả người dưng kẻ lạ, chúng ta đều nên đãi ngộ ngang nhau, giống nhau. Nếu quý vị cư xử tử tế với anh em của mình, thì đối với mọi người khác, quý vị cũng nên tử tế giống như với anh em của quý vị vậy; như thế mới gọi là có tâm bình đẳng. Và nếu quý vị hiếu thảo với cha mẹ, thì quý vị cũng nên xem những người tuổi tác đều như cha mẹ mình, và cũng quan tâm, hiếu thuận với họ giống như với cha mẹ mình; đó là có tâm bình đẳng vậy.

Nói tóm lại, tâm bình đẳng là cái tâm “vô đảng, vô thiên.” Quý vị có tâm bình đẳng, tức là có niệm Chú Đại Bi; không có tâm bình đẳng tức là không niệm Chú Đại Bi vậy.

“Là tâm Vô Vi.” “Vô vi” có nghĩa là không làm; thế thì “không làm” điều gì? Đó là không làm những việc tà vạy, không khởi tà niệm, không sanh tà tri tà kiến. Cái tâm luôn nhắc nhở quý vị chớ nên làm điều xấu xa bại hoại, được gọi là tâm vô vi. Quý vị không làm điều xấu điều ác, tức là quý vị đang niệm Chú Đại Bi! Nếu quý vị vừa niệm Chú Đại Bi lại vừa làm điều sai trái, tức là quý vị không có tâm vô vi; và như thế có nghĩa là quý vị không niệm Chú Đại Bi vậy!

“Là tâm Vô Nhiễm Trước.” Tâm vô nhiễm trước là cái tâm sáng trong thanh tịnh, không chấp trước, không tạp niệm, không vọng tưởng, không tà niệm, không dục niệm—nói rõ hơn, là không có các ý tưởng dâm dục. Nếu quý vị không có lòng tham đắm sắc dục, tức là quý vị có tâm vô nhiễm trước. Trái lại, nếu quý vị có những ý nghĩ dâm ô tà vạy, dục vọng nặng nề, tức là trong tâm quý vị có sự nhiễm trước, bợn nhơ; mà niệm Chú Đại Bi với cái tâm nhiễm trước thì không phải là niệm Chú Đại Bi! Cho nên, những người hiện đang trì niệm Chú Đại Bi đều cần phải chú ý đến đoạn kinh văn này!

“Là tâm Không Quán.” Chúng ta cần phải quán tưởng về tánh “không” của tất cả các pháp. Có “không quán,” thấy được các pháp đều là “không,” thì quý vị sẽ không còn chấp trước gì nữa cả.

“Là tâm Cung Kính.” Quý vị nên hiền từ, hòa nhã, có lòng cung kính đối với mọi người. Hãy xem tất cả chúng sanh đều là Phật, và vì thế mình phải sanh tâm cung kính đối với họ.

“Là tâm Tỳ Hạ.” Tâm tỳ hạ tức là lòng khiêm cung, nhún nhường mà kính cẩn. Chúng ta nên luôn luôn giữ lòng khiêm cung đối với mọi người, chứ đừng sanh tâm cống cao ngã mạn.

“Là tâm Vô Tạp Loạn.” Quý vị không nên có cuồng tâm dã tánh, không nên có cái tâm tạp loạn.

“Là tâm Vô Kiến Thủ.” Khi quý vị trông thấy sự vật thì trong lòng liền mê chấp, sanh khởi kiến hoặc; hễ có kiến hoặc tất có sự chấp giữ (sở thủ).

“Là tâm Vô Thượng Bồ Đề.” Quý vị phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, thì đó chính là Chú Đại Bi; nếu quý vị không có Đạo tâm Vô Thượng Bồ Đề, thì không phải là niệm Chú Đại Bi vậy.

“Nên biết các thứ tâm ấy đều là tướng mạo của môn Đà-La-Ni này; vậy Ông nên y theo đó mà tu hành.” Quán Thế Âm Bồ-tát bảo Đại Phạm Thiên Vương rằng: “Ông phải biết rằng mười cái tâm kể trên—tâm Đại Từ Bi, tâm Bình Đẳng, tâm Vô Vi, tâm Vô Nhiễm Trước, tâm Không Quán, tâm Cung Kính, tâm Tỳ Hạ, tâm Vô Tạp Loạn, tâm Vô Kiến Thủ, và tâm Vô Thượng Bồ Đề—chính là tướng mạo của Chú Đại Bi. Các Ông hãy y chiếu theo mười thứ tâm này để tu hành và trì tụng Chú Đại Bi.”

Sau khi nghe Quán Thế Âm Bồ-tát tuyên thuyết như thế, Đại Phạm Vương thưa rằng: “Tôi và đại chúng nay mới được biết đến tướng mạo của môn Đà-La-Ni này. Tất cả chúng tôi trong Pháp Hội nhờ được nghe Ngài, bậc Đại-sĩ Đại Bồ-tát, thuyết giảng nên mới nhận thức được tướng mạo của pháp môn Tổng Trì này. Từ nay chúng tôi xin thọ trì, và phát nguyện rằng bắt đầu từ hôm nay chúng tôi sẽ tụng trì Thần Chú Đại Bi—chương cú thần diệu Đại Bi Tâm Đà-La-Ni—chẳng dám quên lãng!

Vì sao ư? Vì pháp môn này đích thực là:

Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ.

Một pháp môn cao siêu, vi diệu thì rất là khó tìm, khó được gặp; thế mà nay:

Ngã đẳng kiến văn đắc thọ trì.

Bây giờ, chúng ta không chỉ may mắn được nghe, được thấy, mà còn được thọ trì nữa! Vì thế, chúng ta phải:

Nguyện giải vô thượng chân thật nghĩa.

Vậy, mỗi người trong chúng ta cần phải phát nguyện hiểu được pháp yếu vô thượng này, lãnh hội được diệu lý chân thật này, và vĩnh viễn không bao giờ dám lãng quên.

Đại Phạm Thiên Vương có bản lãnh lớn lao như thế, thong dong tự tại như thế, mà nghe được Chú Đại Bi rồi còn hứa là chẳng dám quên, huống hồ là chúng ta? Nếu quý vị thờ ơ lãnh đạm, tùy tiện bỏ qua, không lo trì niệm, bỏ quên Chú Đại Bi tuốt ngoài chín tầng mây, cách xa tới mười vạn tám ngàn dặm, thì đến lúc quý vị muốn tìm lại, e rằng không dễ gì còn tìm thấy được nữa!

Kinh Văn:

QUÁN THẾ ÂM NGÔN: “NHƯỢC THIỆN NAM TỬ, THIỆN NỮ NHÂN, TỤNG TRÌ THỬ THẦN CHÚ GIẢ, PHÁT QUẢNG ĐẠI BỒ-ĐỀ TÂM THỆ ĐỘ NHẤT THIẾT CHÚNG SANH, THÂN TRÌ TRAI GIỚI, Ư CHƯ CHÚNG SANH KHỞI BÌNH ĐẲNG TÂM, THƯỜNG TỤNG THỬ CHÚ MẠC LỆNH ĐOẠN TUYỆT, TRÚ Ư TỊNH THẤT, THÁO DỤC THANH TỊNH, TRƯỚC TỊNH Y PHỤC, HUYỀN PHAN NHIÊN ĐĂNG, HƯƠNG HOA BÁCH VỊ ẨM THỰC DĨ DỤNG CÚNG DƯỜNG, CHẾ TÂM NHẤT XỨ CÁNH MẠC DỊ DUYÊN, NHƯ PHÁP TỤNG TRÌ, THỊ THỜI ĐƯƠNG HỮU NHẬT QUANG BỒ-TÁT, NGUYỆT QUANG BỒ-TÁT, DỮ VÔ LƯỢNG THẦN TIÊN, LAI VI TÁC CHỨNG ÍCH KỲ HIỆU NGHIỆM.”

Nghĩa: Quán Thế Âm Bồ-tát nói: “Nếu kẻ thiện nam hay người thiện nữ nào trì tụng Thần Chú này phải phát tâm Bồ-đề rộng lớn, thề độ tất cả chúng sanh, thân trì trai giới, đối với chúng sanh khởi tâm bình đẳng, thường tụng Chú này, chớ để gián đoạn. Lại nên ở chốn tịnh thất, tắm gội sạch sẽ, mặc y phục tinh khiết, treo phướn đốt đèn, dùng hương hoa cùng đồ ăn thức uống trăm vị để cúng dường, kềm tâm một chỗ, chớ theo dị duyên, trì tụng đúng Pháp. Lúc ấy sẽ có Nhật Quang Bồ-tát, Nguyệt Quang Bồ-tát, cùng vô lượng thần tiên đều đến chứng minh, làm tăng sự hiệu nghiệm.”

Lược giảng:


Quán Thế Âm Bồ-tát nói: “Nếu kẻ thiện nam hay người thiện nữ nào trì tụng Thần Chú này, phải phát tâm Bồ-đề rộng lớn, thề độ tất cả chúng sanh.” Người trì tụng Chú Đại Bi không nên có tâm lượng nhỏ hẹp, không nên có lòng ích kỷ, không nên có lòng mưu lợi riêng tư, không nên có lòng đố kỵ, không nên có tâm chướng ngại; mà cần phải phát huy cái tâm Bồ-đề bao la—cái tâm giác ngộ rộng lớn—và phải phát nguyện phổ độ hết thảy chúng sanh, làm cho tất cả chúng sanh đều được xa lìa khổ não, hưởng sự an vui.

Lại nữa, người ấy cần phải “thân trì trai giới,” phải giữ chay tịnh và phải thọ trì Ngũ Giới—không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu; đồng thời phải “đối với chúng sanh khởi tâm bình đẳng,” xem muôn loài chúng sanh đều như nhau.

“Thường tụng Chú này, chớ để gián đoạn.” Chúng ta cần phải tụng Chú Đại Bi thật đều đặn, liên tục, không được gián đoạn. Nếu quý vị tùy tiện chỉ tụng một chốc lát rồi nghỉ, nghỉ ngơi chán rồi mới tụng tiếp, như thế là làm cho Chú bị gián đoạn, không được liên tục.

“Lại nên ở chốn tịnh thất.” Lại nữa, người trì tụng Chú Đại Bi cần phải sống ở nơi thanh tịnh, chẳng có pháp nhiễm ô; đồng thời phải thường xuyên “tắm gội sạch sẽ, mặc y phục tinh khiết.” 

Do đó, chúng ta tốt nhất là đừng mặc những y phục và giày vớ dành cho lúc tụng Kinh lạy Phật khi vào nhà vệ sinh. Tuy rằng nhà vệ sinh cũng rất sạch sẽ, nhưng dù sao thì đó cũng là nơi để phóng uế; cho nên đến nhà vệ sinh thì phải cởi áo Giới và áo tràng ra, và thay giày dép khác nữa. Trước đây tôi đã kể cho quý vị nghe rồi: Ấn Quang Lão Pháp Sư mỗi lần vào nhà vệ sinh là Ngài đều thay quần áo và giày vớ khác; rồi khi dùng nhà vệ sinh xong thì Ngài lại thay đồ, mặc lại y bào. Trong suốt mười tám năm sống ở núi Phổ Đà, Ngài luôn luôn giữ nếp hành trì như thế. Người chân chánh trì giữ Giới Luật thì ngay cả những sai trái nhỏ nhặt nhất, vi tế nhất, họ cũng không hề vi phạm. Vì thế, quý vị cần phải nhớ kỹ: Phải cởi y bào và thay giày dép khác trước khi vào nhà vệ sinh—tuyệt đối không được mặc Giới y và áo tràng mà vào nhà vệ sinh!

“Treo phướn, đốt đèn, dùng hương hoa cùng đồ ăn thức uống trăm vị để cúng dường.” Kế đến, người thiện nam tín nữ đó nên treo phướn lên cao và thắp đèn cho sáng; đồng thời sắm sửa hương thơm, các loại hoa muôn màu muôn sắc, cùng đồ ăn thức uống đủ mùi đủ vị để cúng dường Tam Bảo.

“Kềm tâm ở một chỗ, chớ theo dị duyên.” Quý vị phải kiềm giữ cái tâm mình ở một chỗ, trong lòng không sanh vọng tưởng, chẳng khởi tạp niệm, và cũng đừng xen vào những duyên sự khác. “Chớ theo dị duyên” tức là không phan duyên, tâm trí không vướng mắc, không nghĩ ngợi những sự việc khác nữa.

“Trì tụng đúng Pháp.” Nếu người thiện tín đó y chiếu theo phương pháp và những chỉ dẫn trên đây mà tụng trì Chú Đại Bi, thì “lúc ấy sẽ có Nhật Quang Bồ-tát, Nguyệt Quang Bồ-tát, cùng vô lượng thần tiên đều đến chứng minh, làm tăng sự hiệu nghiệm.” 

Nhật Quang Bồ-tát và Nguyệt Quang Bồ-tát là hai vị Bồ-tát phát nguyện hộ trì Chú Đại Bi đắc lực nhất—hễ người nào trì niệm Chú Đại Bi thì hai vị Bồ-tát này sẽ phù hộ, che chở người đó từng giây từng phút. Bấy giờ, ngoài hai vị Bồ-tát Nhật Quang và Nguyệt Quang ra, còn có vô lượng vô biên thần tiên khác cũng đến để chứng giám cho người thiện tín đó: “Ừ, có người đang trì tụng Chú Đại Bi ở đây, vậy ta phải đến phù hộ cho người đó mới được!”; và khiến cho những mong cầu của người tụng Chú đều được hiệu nghiệm.
“Hiệu nghiệm,” cũng gọi là “ứng nghiệm,” hoặc “linh nghiệm,” tức là đạt được sự linh ứng thiêng liêng, mầu nhiệm.

Kinh Văn:

“NGÃ THỜI ĐƯƠNG DĨ THIÊN NHÃN CHIẾU KIẾN THIÊN THỦ HỘ TRÌ, TÙNG THỊ DĨ VÃNG SỞ HỮU THẾ GIAN KINH THƯ TẤT NĂNG THỌ TRÌ, NHẤT THIẾT NGOẠI ĐẠO PHÁP THUẬT, PHỆ-ĐÀ ĐIỂN TỊCH, DIỆC NĂNG THÔNG ĐẠT. 
TỤNG TRÌ THỬ THẦN CHÚ GIẢ, THẾ GIAN BÁT VẠN TỨ THIÊN CHỦNG BỆNH TẤT GIAI TRỊ CHI, VÔ BẤT SI GIẢ; DIỆC NĂNG SỬ LỆNH NHẤT THIẾT QUỶ THẦN, HÀNG CHƯ THIÊN MA, CHẾ CHƯ NGOẠI ĐẠO.”

Nghĩa: “Bấy giờ, Ta dùng ngàn mắt chiếu soi, ngàn tay hộ trì, làm cho người ấy từ đó về sau có thể thọ trì tất cả sách vở thế gian, thông đạt tất cả điển tịch Phệ-đà cùng pháp thuật của ngoại đạo. Người nào tụng trì Thần Chú này thì có thể trị được tám vạn bốn ngàn thứ bệnh ở thế gian, chẳng bệnh nào không khỏi; lại cũng có thể sai khiến được tất cả quỷ thần, hàng phục thiên ma, chế phục ngoại đạo.”

Lược giảng:

“Bấy giờ, Ta dùng ngàn mắt chiếu soi, ngàn tay hộ trì.” Quán Thế Âm Bồ-tát nói tiếp: “Lúc ấy, Ta sẽ dùng một ngàn con mắt để dõi theo và duỗi một ngàn cánh tay ra để che chở, hộ trì người tụng Chú Đại Bi đó. Chẳng những thế, Ta còn làm cho người ấy từ đó về sau có thể thọ trì tất cả sách vở thế gian, thông đạt tất cả điển tịch Phệ-đà —kinh điển của ngoại đạo—cùng pháp thuật của ngoại đạo. Người nào tụng trì Thần Chú này thì có thể trị được tám vạn bốn ngàn thứ bệnh ở thế gian, chẳng bệnh nào không khỏi.

Thế gian này có tới tám vạn bốn ngàn thứ bệnh mà Chú Đại Bi đều có thể trị lành được tất cả. Bất luận là bị cancer hoặc mắc phải bệnh gì đi nữa, nếu quý vị thành tâm thiết tha tụng niệm Chú Đại Bi thì đều được khỏi bệnh. Những bệnh nan y, bất cứ thuốc men gì cũng không chữa trị được, thì Chú Đại Bi đều có thể trị lành được; vì thế mà nói là “vô bất si giả” (chẳng bệnh nào không khỏi.)

Trong câu “vô bất si giả,” chữ “si” hàm ý lành bệnh, khỏi bệnh. Theo Hán tự, chữ “si” này nếu có thêm chữ “bệnh” đứng bên cạnh thì thành ra chữ “sái,” có nghĩa là lành bệnh, hết bệnh. Như vậy, câu trên sẽ là “vô bất sái giả,” và ngụ ý là chẳng có bệnh nào mà không thuyên giảm, chẳng có bệnh nào mà không trị lành cả!

Ngoài ra, người trì tụng Chú Đại Bi “lại cũng có thể sai khiến được tất cả quỷ thần.” “Sai khiến được tất cả quỷ thần” là thế nào? Tức là người ấy bảo làm việc gì thì các quỷ thần liền răm rắp làm việc đó, bảo đi đâu thì lập tức đi đấy. Chẳng những thế, người ấy còn có thể “hàng phục thiên ma, chế phục ngoại đạo” nữa.

Kinh Văn:

NHƯỢC TẠI SƠN DÃ, TỤNG KINH TỌA THIỀN, HỮU CHƯ SƠN TINH TẠP MỊ VỌNG LƯỢNG QUỶ THẦN, HOẠNH TƯƠNG NÃO LOẠN, TÂM BẤT AN ĐỊNH GIẢ, TỤNG THỬ CHÚ NHẤT BIẾN, THỊ CHƯ QUỶ THẦN TẤT GIAI BỊ PHƯỢC DÃ.”

Nghĩa: “Nếu ở chốn sơn dã tụng Kinh tọa Thiền mà có các sơn tinh, tạp mị, vọng lượng, quỷ thần, hoành hành não loạn làm cho tâm không được an định, tụng Chú này một biến thì các quỷ thần đó đều bị trói lại hết.”

Lược giảng:

“Nếu ở chốn sơn dã tụng Kinh tọa Thiền mà có các sơn tinh, tạp mị, vọng lượng, quỷ thần, hoành hành não loạn làm cho tâm không được an định...” Giả sử quý vị sống ở chốn núi non vắng vẻ, không người lai vãng, mà tụng Kinh hay ngồi Thiền, thì thường có các quỷ thần như sơn yêu thủy quái, ly mị vọng lượng đến quấy nhiễu, tác oai tác quái, khiến cho quý vị bị loạn tâm. Bấy giờ, nghĩ đến việc tụng Kinh thì quý vị cảm thấy rất phiền muộn, chán chường: “Tụng Kinh để làm gì kia chứ?”; hoặc muốn ngồi Thiền nhưng vừa ngồi xuống thì vọng tưởng lại mon men dấy lên: “Ngồi thế này thật không thoải mái chút nào. Hết đau chân thì lại mỏi lưng mỏi cổ, ê ẩm cả người. Ui chao, thôi đứng dậy quách cho rồi!” 

Vì sao lại như thế? Đó là vì quý vị bị chúng ma tới quấy nhiễu, chọc phá, làm cho quý vị thấy trong lòng bứt rứt xốn xang, không thể nào ngồi yên được. Chúng lại tỉ tê dụ dỗ: “Ngồi Thiền để làm gì? Thôi, đừng tu hành nữa, theo bọn tôi đi chơi đi, ngoài kia có nhiều trò vui chơi náo nhiệt lắm! Bạn ở đây thì phải nào là tụng Kinh, nào là ngồi Thiền, lại còn phải tuân theo đủ các thứ quy củ luật lệ rắc rối nữa, chẳng thú vị gì cả! Hãy mau mau nhập bọn làm quyến thuộc với chúng tôi đi! Xem kìa, thế giới của chúng ta thật là nhộn nhịp v.v...” 

Ma Vương còn có thể xui khiến quý vị sanh khởi những vọng tưởng như: “Nam nữ hành dâm là không thành vấn đề.” Chúng ma là những kẻ phá hoại, chúng đến cốt để phá hoại Định tâm, phá hoại Giới tâm và phá hoại Huệ tâm của quý vị, làm cho Giới Định Huệ của quý vị đều tiêu tan.

Muốn tu hành theo Bồ-tát Đạo thì quý vị cần phải có mười thứ tâm; thế nhưng hễ bị Ma Vương quấy phá thì mười thứ tâm ấy liền bị lung lay, không thể an trụ vững vàng được nữa! Bấy giờ, tâm quý vị vốn “trụ” ở đức Tín song nay thì tín tâm không còn nữa; mà không có tín tâm thì sẽ sanh lòng “bất tín.” 

Quý vị muốn giữ tâm trì niệm, nhớ nghĩ—muốn chuyên chú tụng Kinh, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng—thì Ma Vương lại xui khiến quý vị trở nên ngần ngừ do dự: “Thôi, đi ngủ một giấc cho khỏe!” Và như thế là cái lòng niệm tưởng của quý vị cũng tiêu tan.


Niệm tâm” không có thì lòng tinh tấn cũng chẳng còn, quý vị không còn hăng hái tu học nữa: “Có chắc là tu hành thì sẽ thành Phật được hay không? Biết đâu đó chỉ là chuyện hoang đường, không đáng tin?” Và thế là cái tâm tinh tấn này cũng chẳng “trụ” được nữa.

Tâm Tinh Tấn không “trụ” thì không có tâm trí huệ—Huệ Tâm cũng chẳng “trụ” được.

Huệ Tâm không “trụ” thì không có Định Tâm—Định Tâm cũng chẳng “trụ” được.

Định không “trụ” thì không có Tâm Bất Thối—“bất thối tâm” liền biến thành “thối tâm.” Hễ sanh tâm thối chuyển thì sẽ không còn lòng hộ trì Phật Pháp; bấy giờ quý vị sẽ khởi những vọng tưởng như: “Mình cần gì phải cúng dường Tam Bảo? Để Tam Bảo cúng dường cho mình chẳng tốt hơn ư?” Như có những cư sĩ đòi hỏi Tam Bảo phải hộ pháp cho họ, đó cũng là điển hình của trường hợp tâm Hộ Pháp không “trụ” vậy.

Tâm Hộ Pháp không “trụ” thì tâm hồi hướng cũng không “trụ”—không có tâm hồi hướng.

Tâm Hồi Hướng không có thì Giới Tâm cũng chẳng “trụ,” quý vị cũng chẳng còn chú ý thọ trì Giới Luật nữa.

Và cuối cùng là Nguyện Tâm cũng chẳng “trụ” nữa; thế thì còn phát nguyện gì nữa? Bấy giờ quý vị sẽ nghĩ ngợi lẩn thẩn: “Tôi không phát nguyện, không hứa hẹn điều gì cả. Tôi muốn thế nào thì cứ thế ấy, tự do biết bao! Tội gì lập nguyện rồi chính mình lại bị ràng buộc bởi lời nguyện đó? Như thế thì gò bó quá, mất tự do nhiều quá!” Thế là Nguyện Tâm cũng chẳng “trụ” nữa.

Như vậy, mười “trụ tâm” biến thành mười “bất trụ tâm.” Vì sao quý vị lại có mười “bất trụ tâm” ư? Đó là do sự phá hoại của Ma Vương! Ma Vương chui luồn len lỏi vào mọi ngỏ ngách trong tâm quý vị, khiến tư tưởng của quý vị có sự biến chuyển.

“Tụng Chú này một biến thì các quỷ thần đó đều bị trói lại hết.” Nếu quý vị gặp phải tình trạng như trên, trong lòng cảm thấy phiền não, bứt rứt rối loạn, đó là bởi Ma Vương muốn phá hoại quý vị; bấy giờ, quý vị hãy tụng Chú Đại Bi một biến, tức thì các quỷ thần và Ma Vương sẽ bị tóm bắt và trói gô lại.

Kinh Văn:

“NHƯỢC NĂNG NHƯ PHÁP TỤNG TRÌ, Ư CHƯ CHÚNG SANH, KHỞI TỪ BI TÂM GIẢ, NGÃ THỜI ĐƯƠNG SẮC NHẤT THIẾT THIỆN THẦN, LONG VƯƠNG, KIM CANG MẬT TÍCH, THƯỜNG TÙY VỆ HỘ, BẤT LY KỲ TRẮC, NHƯ HỘ NHÃN TINH, NHƯ HỘ KỶ MẠNG.”

Nghĩa: “Nếu người ấy có thể tụng trì đúng pháp, đối với chúng sanh khởi lòng từ bi, thì lúc đó Ta sẽ sai bảo tất cả Thiện Thần, Long Vương, Kim Cang Mật Tích, thường theo hộ vệ, không rời bên mình, như gìn giữ tròng mắt, như bảo hộ tánh mạng của chính họ vậy.” 

Lược giảng:


Quán Thế Âm Bồ-tát dạy tiếp: “Nếu người ấy có thể tụng trì đúng pháp... ” Thứ “pháp” mà Quán Thế Âm Bồ-tát nói đến ở đây là pháp gì? Đó là pháp “Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn”—pháp môn Bốn Mươi Hai Bàn Tay! Quý vị phải biết rằng: Hiện tại tôi giảng Kinh Đại Bi bởi vì quý vị cần phải hiểu rõ mọi chỉ dẫn để có thể tu tập cho đúng pháp.

“Y pháp thọ trì” tức là tu tập và hành trì đúng theo những gì đã dạy trong pháp Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn, và đó không phải chỉ tụng làu làu một mách từ “Nam Mô Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da. Nam Mô A Lị Da...” cho đến hết bài Chú Đại Bi là đủ. Không phải đơn thuần như thế! Cho nên, đối với pháp môn này, quý vị cần phải được “chân truyền,” tức là phải được chính thức và thật sự truyền dạy một cách đúng đắn thì mới được; bằng không, nếu không được chân truyền, mà chỉ toàn là nói suông và xem kinh nghĩa thôi, thì chẳng thể nào hiểu nổi!

Vậy, nếu người trì tụng Chú Đại Bi chẳng những trì tụng đúng theo giáo pháp mà còn có thể “đối với chúng sanh khởi lòng từ bi, thì lúc đó Ta sẽ sai bảo tất cả Thiện Thần, Long Vương, Kim Cang Mật Tích, thường theo hộ vệ, không rời bên mình.” Ở đây, “Ta” tức là tiếng tự xưng của Quán Thế Âm Bồ-tát; Ngài nói rằng: “Lúc bấy giờ, Ta—Quán Thế Âm Bồ-tát—sẽ ra lệnh cho chư vị Thiện Thần, Long Vương, Hộ Pháp Kim Cang, Mật Tích Bồ-tát, phải luôn luôn theo sát bên mình người trì tụng Chú Đại Bi ấy.” Như vậy tức là có tám vạn bốn ngàn vị Kim Cang Tạng Bồ-tát thường xuyên sát cánh, kề cận bên mình người đó để bảo vệ.

Do đó, những người tụng trì Đại Bi Chú, tu trì Đại Bi Pháp, cần phải nhớ là không nên sanh dục niệm, chớ khởi những vọng tưởng về desire; bởi chư Hộ Pháp Thiện Thần đều theo sát bên quý vị, mà nếu tâm trí quý vị cứ lởn vởn thứ vọng tưởng đó, thì các ngài nhận thấy: “Tên này thật là tệ, chẳng giữ gìn quy củ gì cả! Thôi, ta không muốn che chở, bảo vệ hắn nữa!”

Cho nên, quý vị tu pháp thì không được sanh vọng tưởng, không được mơ mộng nhớ nhung cô girlfriend này hay cậu boyfriend nọ! Nếu quý vị cứ mơ tưởng vẩn vơ như thế, Kim Cang Tạng Bồ-tát sẽ phải lấy bảo chùy đánh cho quý vị thức tỉnh, và quý vị nếu không đau đầu thì cũng nhức mình nhức mẩy. Cho nên, nếu quý vị bị nhức đầu hoặc cơ thể cảm thấy đau đớn khó chịu, đó có thể là do bị Kim Cang Tạng Bồ-tát trừng phạt đấy; Ngài bảo: “Nhà ngươi thật là tồi tệ, chẳng tuân giữ quy củ gì cả! Hư hỏng quá sức!” 

Cho nên, quý vị cần phải thận trọng hơn, đừng bê bối cẩu thả nữa—không được một mặt thì tụng Chú Đại Bi, mặt khác lại khởi tà tri tà kiến, dấy sanh vọng tưởng! Hễ tâm quý vị vừa dấy động thì chư Bồ-tát Hộ Pháp lập tức biết được ngay; bởi các Ngài có Ngũ Nhãn Lục Thông, có thể thấy tường tận được con người của quý vị từ ngoài vào trong như nhìn xuyên qua lớp thủy tinh trong suốt vậy!

Quý vị chớ tưởng rằng: “Vô lý, các Ngài làm sao biết được những ý nghĩ thầm kín của tôi?” Nếu các Ngài không biết, thì các Ngài đã không được tôn xưng là Phật, là Bồ-tát, là Hộ Pháp! Thế nên, quý vị chớ hoài công đánh lừa các ngài vô ích. Quý vị không được có lòng cầu may hoặc lừng khừng: “Không sao đâu! Chỉ là vọng tưởng trong đầu mà thôi, đâu thành vấn đề!” Quý vị phải biết, cái vọng tưởng này vừa dấy khởi thì tâm quý vị liền trở thành tâm nhiễm ô chứ không phải là tâm Đại Bi nữa!

“Như gìn giữ tròng mắt, như bảo hộ tánh mạng của chính họ vậy.” Chư vị Hộ Pháp sẽ che chở bảo vệ người trì Chú Đại Bi chẳng khác nào bảo vệ đôi mắt hoặc sanh mạng của chính các Ngài vậy.

Kinh Văn:

THUYẾT KỆ SẮC VIẾT:
“NGÃ KHIỂN MẬT TÍCH KIM CANG SĨ,
Ô SÔ QUÂN TRÀ ƯƠNG CÂU THI,
BÁT BỘ LỰC SĨ THƯỞNG CA LA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.

NGÃ KHIỂN MA HÊ NA LA DIÊN,
KIM TỲ LA ĐÀ CA TỲ LA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.

NGÃ KHIỂN BÀ CẤP TA LÂU LA,
MÃN THIỆN XA BÁT CHÂN ĐÀ LA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.

NGÃ KHIỂN TÁT GIÁ MA HÒA LA,
CƯU LAN ĐAN TRA BÁN CHỈ LA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.

NGÃ KHIỂN TẤT BÀ GIÀ LA VƯƠNG,
ƯNG ĐỨC TỲ ĐA TÁT HÒA LA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.”

Nghĩa: 

Lại thuyết kệ sắc lệnh rằng:
“Ta sai Mật Tích Kim Cang Sĩ,
Ô Sô, Quân Trà, Ương Câu Thi,
Bát Bộ Lực sĩ Thưởng Ca La,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.

Ta sai Ma Hê Na La Diên,
Kim Tỳ La Đà Ca Tỳ La,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.

Ta sai Bà Cấp Ta Lâu La,
Mãn Thiện Xa Bát Chân Đà La,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.

Ta sai Tát Giá Ma Hòa La,
Cưu Lan Đan Tra Bán Chỉ La,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.

Ta sai Tất Bà Già La Vương,
Ưng Đức Tỳ Đa Tát Hòa La,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.” 

Lược Giảng:


Lại thuyết kệ sắc lệnh rằng: ... Bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ-tát nói một bài kệ, ra lệnh cho tất cả các Thiện Thần đều phải che chở, ủng hộ người thọ trì Chú Đại Bi.

“Ta sai Mật Tích Kim Cang Sĩ,/ Ô Sô, Quân Trà, Ương Câu Thi.” Đây là tên của các vị Kim Cang Hộ Pháp. Mỗi vị Kim Cang đều có thần lực riêng của mình. Có câu “ai có sở trường nấy”—chư vị Hộ Pháp cũng vậy, vị nào cũng có sở trường hoặc đặc điểm của vị ấy.

Thí dụ, có vị Hộ Pháp thì phát nguyện rằng: “Nếu có người nào tụng Chú Đại Bi được một trăm lẻ tám (108) biến, thì tôi sẽ thường xuyên túc trực để ủng hộ người đó; cho dù phải hy sinh tánh mạng, tôi cũng quyết bảo vệ người trì Chú ấy cho bằng được!”

Trong khi đó, có vị lại nguyện rằng: “Nếu có người nào tụng được dù chỉ một chữ hoặc một câu của Chú Đại Bi, thì tôi sẽ vĩnh viễn ủng hộ và bảo vệ người đó!”

Cũng có vị Hộ Pháp nguyện rằng: “Nếu có người nào, đừng nói là tụng Chú Đại Bi, cho dù chỉ nghe được danh hiệu ‘Chú Đại Bi’ thôi, thì tôi nguyện sẽ bảo vệ và khiến cho mọi điều mong cầu của người đó đều được thành tựu, muốn gì được nấy.”

Tuy rằng mỗi vị Kim Cang Hộ Pháp đều lập một lời thệ nguyện khác nhau, nhưng tựu trung, tất cả đều cùng chung một mục đích—đó là gì? Đó là ủng hộ người trì Chú Đại Bi, ủng hộ người nghe Chú Đại Bi, ủng hộ người có tín tâm chân chánh đối với Chú Đại Bi.

Trong Kinh có nói rằng, nếu chúng ta “còn sanh chút lòng nghi, ắt không được kết quả toại nguyện”; cho nên, nếu quý vị không có tín tâm đối với Chú Đại Bi, thì quý vị sẽ không thể có được sự thành tựu. 

Có người nói rằng: “Tôi tụng Chú rất nhiều mà sao chẳng thấy linh nghiệm, chẳng thấy công hiệu gì cả?” Đó không phải là do Chú không công hiệu, mà là vì quý vị thiếu đức tin, thiếu thành khẩn, đầu óc lúc nào cũng lởn vởn những ý tưởng hoài nghi: “Tại sao không linh nghiệm? Tại sao không thấy có công hiệu gì cả?”; vì thế mà công hiệu gì, linh nghiệm gì cũng đều không xảy ra cả! Cho nên, nếu muốn có được sự cảm ứng chân chánh thì thâm tâm quý vị phải hoàn toàn không còn mảy may hoài nghi. 

Đúng ra, nếu tụng Chú Đại Bi mà không thấy hiệu nghiệm thì quý vị phải hồi quang phản chiếu, tự hỏi chính mình: “Ồ! Phải chăng vì mình thiếu thành tâm, nên mới không đạt được sự tương ưng với năng lực bất khả tư nghì của Chú?”
Quý vị không được nói rằng: “Chú Đại Bi không linh nghiệm, những điều giảng nói trong Chú đều là hoang đường, không có thật!” Chúng ta tuyệt đối không được có lòng hoài nghi như thế!

Quán Thế Âm Bồ-tát nói rằng: “Ta sai Mật Tích Kim Cang Sĩ.” “Sai” tức là sai khiến, ra lệnh. Gọi là “mật tích” (hành tung bí mật, kín đáo) bởi lẽ cho dù những vị Kim Cang Hộ Pháp này đứng ngay bên cạnh quý vị, quý vị cũng không nhìn thấy được và cũng chẳng hề hay biết. Tất cả các vị Kim Cang Lực Sĩ đều có sức mạnh phi thường. 

“Ô Sô, Quân Trà, Ương Câu Thi” là tên của các vị Hộ Pháp phiên âm từ tiếng Phạn và vẫn được giữ nguyên như thế trong bài Chú chứ không phiên dịch ra, cho nên bây giờ chúng ta cũng không cần phải giải thích ý nghĩa của những tên gọi đó. Quý vị chỉ cần nhớ rằng đó là các vị Kim Cang Hộ Pháp đến để bảo vệ người trì tụng Chú Đại Bi, như vậy là đủ rồi! Bởi Kim Cang Tạng Bồ-tát có tới tám vạn bốn ngàn vị, rất đông đảo chứ không phải chỉ có mấy vị trên đây mà thôi đâu! Cho nên, những tên gọi này, nếu quý vị không hiểu thì cũng không sao!

“Bát Bộ Lực Sĩ Thưởng Ca La.” “Bát Bộ” tức là Thiên Long Bát Bộ—trời, rồng, cùng tám bộ chúng. “Thưởng Ca La” là tên của một vị Lực-sĩ thuộc Bát Bộ.

“Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.” Những vị Hộ Pháp kể trên đều được lệnh của Quán Thế Âm Bồ-tát là phải luôn luôn bảo vệ, trợ giúp những người trì tụng Chú Đại Bi.

“Ta sai Ma Hê Na La Diên.” “Ma Hê Na La Diên” chính là thiên chúng của cõi trời Ma Hê Thủ La. “Na La Diên” có nơi dịch là “đại mãng xà”; tuy nhiên, bất kể đó là ai, nói chung thì tất cả đều cùng một mục đích là hộ Pháp mà thôi.

Quán Thế Âm Bồ-tát cũng phái Ma Hê Na La Diên, cùng với các vị Hộ Pháp như “Kim Tỳ La Đà, Ca Tỳ La,/ Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.”

“Ta sai Bà Cấp, Ta Lâu La.” Quán Thế Âm Bồ-tát lại nói tiếp: “Không phải chỉ có các Kim Cang Lực-sĩ nói trên mà thôi đâu, Ta còn ban sắc lệnh, khiến các Kim Cang Lực-sĩ, Thiện Thần Hộ Pháp là Bà Cấp, Ta Lâu La, Mãn Thiện, Xa Bát, Chân Đà La,/ Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì. Họ sẽ luôn luôn kề cận để bảo vệ và giúp đỡ những người trì Chú Đại Bi.”

“Ta sai Tát Giá Ma Hòa La,/ Cưu Lan, Đan Tra, Bán Chỉ La,/ Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.” “Đan Tra” chính là vị “Ca Tra” được nhắc đến ở câu “Ca Tra Bổ Đan Na” trong Chú Lăng Nghiêm. Tất cả những vị Hộ Pháp này đều được lệnh của Quán Thế Âm Bồ-tát là phải theo dõi để bảo vệ kẻ trì Chú Đại Bi.

“Ta sai Tất Bà, Già La Vương,/ Ưng Đức, Tỳ Đa Tát Hòa La,/ Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì,.” Đây là tên của các vị quỷ vương hoặc thần vương. Các vị này cũng được lệnh phải thường xuyên kề cận để che chở cho những kẻ thọ trì, tụng niệm Chú Đại Bi.

Kinh Văn:

“NGÃ KHIỂN PHẠM MA TAM BÁT LA,
NGŨ BỘ TỊNH CƯ DIÊM MA LA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.

NGÃ KHIỂN THÍCH VƯƠNG TAM THẬP TAM,
ĐẠI BIỆN CÔNG ĐỨC BÀ ĐÁT NA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.

NGÃ KHIỂN ĐỀ ĐẦU LẠI TRA VƯƠNG,
THẦN MẪU NỮ ĐẲNG ĐẠI LỰC CHÚNG,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.

Nghĩa:
Ta sai Phạm Ma Tam Bát La,
Ngũ Bộ Tịnh Cư Diêm Ma La,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.

Ta sai Thích Vương Tam Thập Tam,
Đại Biện Công Đức Bà Đát Na,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.

Ta sai Đề Đầu Lại Tra Vương,
Cả Thần Mẫu Nữ, chúng Đại Lực,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.

Lược Giảng:

Quán Thế Âm Bồ-tát nói tiếp: “Ta sai Phạm Ma Tam Bát La,/ Ngũ Bộ Tịnh Cư Diêm Ma La,/ Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.”

“Phạm Ma Tam Bát La” là tên của một vị Hộ Pháp ở cõi trời; còn “Diêm Ma La” là tên của vị Hộ Pháp thuộc Ngũ Bộ ở cung trời Tịnh Cư. Các vị Hộ Pháp này được lệnh phải luôn luôn theo bảo vệ kẻ tụng trì Chú Đại Bi.

“Ta sai Thích Vương Tam Thập Tam,/ Đại Biện Công Đức Bà Đát Na,/ Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.”

“Thích Vương” tức là vua Đế Thích, Thiên Chủ của cõi trời Ba Mươi Ba.

“Đại Biện Công Đức Bà Đát Na” tức là vị Hộ Pháp có tài biện luận và công đức rộng lớn tên Bà Đát Na. 

Tất cả những vị Hộ Pháp này đều được Quán Thế Âm Bồ-tát phái đi phù hộ những người thành tâm trì tụng Chú Đại Bi.

“Ta sai Đề Đầu Lại Tra Vương,/ Cả Thần Mẫu Nữ, chúng Đại Lực,/ Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.” 

“Đề Đầu Lại Tra Vương” là một trong bốn vị Tứ Đại Thiên Vương.

“Thần Mẫu Nữ” tức là “Quỷ Tử Mẫu” (mẹ của những quỷ con), thống lãnh bộ chúng Đại Lực—các quỷ thần thuộc hạ của bà đều có sức mạnh phi thường, riêng bản thân bà thì không.

Vì sao gọi là “Quỷ Tử Mẫu”? Ban đầu, đáng lẽ bà có thể được gọi là “Thần Tử Mẫu,” nhưng vì bà có hành vi giống như loài quỷ—cứ đi bắt cóc con của người ta để ăn thịt—nên mới bị gọi là “Quỷ Tử Mẫu.” Nhà nào có trẻ sơ sinh là Quỷ Tử Mẫu liền tới bắt về ăn; cả trẻ con chừng hai, ba tuổi cũng bị bà bắt ăn thịt nữa. Bà Quỷ Tử Mẫu có một ngàn (1.000) đứa con trai; những đứa con nít mà bà đi khắp nơi để lùng bắt và mang về không phải chỉ một mình bà mà cả bầy quỷ con cùng xúm lại chia nhau ăn.

Một hôm, chư Hộ Pháp Thiện Thần thấy hành vi của Quỷ Tử Mẫu càng ngày càng quá đáng và không đúng với giáo pháp, bèn quyết định đến bạch với Đức Phật Thích Ca Mâu Ni: “Bạch Đức Thế Tôn! Hiện nay trẻ con ở thế gian bị Quỷ Tử Mẫu bắt ăn thịt gần hết, chỉ còn lại một số rất ít! Nhân loại ở thế gian sắp bị tuyệt chủng tới nơi rồi; vậy chúng con phải làm gì bây giờ?”

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo: “Không sao, việc này không phải là một vấn đề to tát lắm! Ta đã có cách giải quyết rồi!” Và thế là Đức Phật phái Mật Tích Kim Cang đi bắt đứa nhỏ nhất trong bầy quỷ con một ngàn đứa của Quỷ Tử Mẫu về và đem bỏ vào trong bình bát của Phật. Đức Phật lật úp cái bát lại, khiến đứa nhỏ bị nhốt trong bát, không thoát ra được. 
Chú quỷ con bị nhốt một mình trong bát thì sợ hãi khóc òa, Quỷ Tử Mẫu nghe tiếng khóc liền nhận ra đó là tiếng đứa con út của mình, bèn ra lệnh cho chín trăm chín mươi chín (999) đứa con còn lại đến hè nhau nhấc cái bát lên cho chú quỷ út chạy ra, nhưng không thể nào nhấc lên nổi. Thấy thế, Quỷ Tử Mẫu bèn dùng sức thần thông để lật ngửa cái bát lên, song cái bát vẫn chẳng chịu nhúc nhích.

Ban đầu Quỷ Tử Mẫu chỉ nghĩ là lén cướp lại đứa con mà thôi, nhưng bây giờ thấy cướp không được thì chỉ còn cách tới hỏi thẳng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni: “Tại sao Ngài lại bắt cóc con tôi và nhốt nó dưới bình bát của Ngài như thế? Chao ôi! Nó khóc lóc thảm thiết thế kia mà Ngài chẳng động chút lòng từ bi nào cả ư?”

Quý vị xem, bà Quỷ Tử Mẫu này dám chỉ trích người khác là không có lòng từ bi; thế còn bà ăn thịt con của người ta thì thử hỏi bản thân bà có được chút lòng từ bi nào chăng?

Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mới từ tốn hỏi lại: “À! Ngươi có đông con thế kia thì mất đi một đứa cũng chẳng hề chi! Ngươi có tới một ngàn đứa con lận, nếu bớt đi một đứa bé này thì có sao đâu?”

Quỷ Tử Mẫu đáp: “Không được! Tôi thì một đứa cũng không thể thiếu được!”

Đức Phật ôn tồn hỏi: “Ngươi ăn thịt con của người ta, thế thì ngươi có lòng từ bi chăng?”

Quỷ Tử Mẫu phân trần: “Tôi nào muốn như thế đâu! Ngài cho rằng tôi thích ăn thịt con nít lắm sao? Nếu không ăn thì cái thân già nua này chịu đói không nổi! Bởi thịt trẻ con thì mềm mại, thơm ngon vô cùng, mà răng của tôi thì cũng không còn tốt cho lắm, cho nên tôi mới phải ăn thịt của chúng đấy thôi!”

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lại hỏi: “Ngươi ăn thịt con của người ta thì được, còn Ta mới bắt một đứa con út của ngươi thôi mà ngươi đã đau khổ, cuống quýt đến thế kia! Vậy thì ngươi nghĩ tâm trạng của những kẻ làm cha làm mẹ trong thiên hạ mà bị mất con là như thế nào?”

Quỷ Tử Mẫu vẫn bướng bỉnh: “Tôi đâu cần phải bận tâm về họ nhiều như thế! Tôi chỉ lo ăn cho no bụng mình là đủ rồi!”
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nghiêm giọng phán: “Thế ư? Nếu thế thì Ta cũng chẳng bận tâm về chuyện của ngươi nữa! Ta chẳng cần biết là ngươi có bị mất con hay không! Ngươi có bản lãnh thì cứ đem nó về đi!”

Quỷ Tử Mẫu nghe Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói như thế thì lại tìm cách lật bát, nhưng không tài nào lật lên được. Chẳng còn cách nào khác, Quỷ Tử Mẫu bèn đến quỳ trước mặt Đức Phật mà khóc lóc năn nỉ, thỉnh cầu Ngài mở lòng từ bi mà thả con bà ra.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy: “Được! Ngươi muốn Ta trả đứa con lại cho ngươi, thì cũng được thôi! Ta không ăn thịt con của ngươi đâu, bởi vì Ta không giống như ngươi—Ta chỉ ăn chay, cho nên, đừng nói là thịt người lớn hay con nít, bất cứ loại thịt nào Ta cũng không ăn cả!”

Quỷ Tử Mẫu nghe nói như thế thì tự nghĩ: “Ồ! Thì ra người này không ăn thịt!”; và thắc mắc: “Thế thì Ngài làm sao sống được?”

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đáp: “Ta đi hóa duyên các nơi, xin thức ăn chay.”

Quỷ Tử Mẫu nói: “Thế nhưng tôi biết đi đâu để hóa duyên? Ngài là Phật nên có thể đi hóa duyên; còn tôi thì đâu làm như thế được. Tôi nào phải là người xuất gia!”

Đức Phật nói: “Thôi được! Nếu từ rày về sau ngươi sẵn sàng không ăn thịt trẻ con nữa, thì Ta sẽ bảo các đệ tử của Ta mang thức ăn chay bố thí cho ngươi—miễn sao ngươi không ăn thịt trẻ con nữa là được.”

Quỷ Tử Mẫu hớn hở thưa: “Nếu tôi có thức ăn đầy đủ thì đương nhiên là tôi khỏi ăn thịt trẻ con cũng được.”

Thế là, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thả chú quỷ con ra và trả lại cho Quỷ Tử Mẫu. Do nhân duyên này mà những người xuất gia khi thọ trai đều có lệ “thí thực.” “Thí” là bố thí, ban phát; “thực” là phạn thực, cơm ăn. Lúc thí thực, quý Thầy, Cô dành ra một ít thức ăn và xướng rằng: 

Đại bàng kim xí điểu,
Khoáng dã quỷ thần chúng,
La-sát Quỷ Tử Mẫu,
Cam-lồ tất sung mãn.

(Chim đại bàng cánh vàng,
Quỷ thần nơi khoáng dã,
Mẹ con quỷ La-sát,
Đầy đủ nước cam-lồ.)

Rồi họ tụng một bài Chú và mấy mẹ con của bà Quỷ Tử Mẫu thảy đều có được thức ăn no đủ, không còn bị đói khát và do đó không phải ăn thịt con nít nữa. 

Cho nên, chúng ta nhờ không bị Quỷ Tử Mẫu ăn thịt nên bây giờ mới còn sống và lớn lên cao ráo, khỏe mạnh, lại có được cơ hội học hành, làm việc. Nếu không nhờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo hóa được Quỷ Tử Mẫu, thì e rằng nhân loại trên thế giới sẽ không được đông đúc như hiện nay. Ngoài ra, từ đó Quỷ Tử Mẫu chẳng những không ăn thịt con nít mà còn trở thành kẻ hộ Pháp đắc lực cho Phật Giáo nữa.

Vậy, khi có người chuyên tâm và theo đúng như giáo pháp mà trì tụng Chú Đại Bi, thì Quán Thế Âm Bồ-tát gọi Quỷ Tử Mẫu và bảo rằng: “Này Quỷ Tử Mẫu, đã đến lúc ngươi có thể tạo đôi chút công đức rồi đó. Có người đang thọ trì Chú Đại Bi này của Ta, vậy ngươi hãy mau mau đi bảo vệ người ấy.” Thế là Quỷ Tử Mẫu liền thống lãnh một ngàn đứa con trai lực lưỡng, khỏe mạnh, cùng nhau đi hộ Pháp, cho nên nói là “cả Thần Mẫu Nữ, chúng Đại Lực,/ thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.”

Kinh Văn:

“NGÃ KHIỂN TỲ LÂU LẶC XOA VƯƠNG,
TỲ LÂU BÁC XOA TỲ SA MÔN.
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.

NGÃ KHIỂN KIM SẮC KHỔNG TƯỚC VƯƠNG,
NHỊ THẬP BÁT BỘ ĐẠI TIÊN CHÚNG,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.

NGÃ KHIỂN MA-NI BẠT ĐÀ LA,
TÁN CHI ĐẠI TƯỚNG PHẤT LA BÀ,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.

NGÃ KHIỂN NAN ĐÀ, BẠT NAN ĐÀ,
BÀ GIÀ LA LONG Y BÁT LA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.

NGÃ KHIỂN TU LA, CÀN THÁT BÀ,
CA LÂU, KHẨN NA, MA HẦU LA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.

NGÃ KHIỂN THỦY HỎA LÔI ĐIỆN THẦN,
CƯU BÀN TRÀ VƯƠNG, TỲ XÁ XÀ,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.”

Nghĩa:
“Ta sai Tỳ Lâu Lặc Xoa Vương,
Tỳ Lâu Bác Xoa Tỳ Sa Môn,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.

Ta sai Kim Sắc Khổng Tước Vương,
Hai mươi tám bộ Đại Tiên chúng,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.

Ta sai Ma Ni Bạt Đà La,
Tán Chi Đại Tướng, Phất La Bà,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.

Ta sai Nan Đà, Bạt Nan Đà,
Bà Già La Long, Y Bát La,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.

Ta sai Tu La, Càn Thát Bà,
Ca Lâu, Khẩn Na, Ma Hầu La,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.

Ta sai Thủy, Hỏa, Lôi, Điển Thần,
Cưu Bàn Trà Vương, Tỳ Xá Xà,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.”

Lược giảng:

Quán Thế Âm Bồ-tát nói tiếp: “Ta sai Tỳ Lâu Lặc Xoa Vương, Tỳ Lâu Bác Xoa Tỳ Sa Môn, Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.” Đây đều là tên của các vị Hộ Pháp Thần Vương của Tứ Đại Thiên Vương. Các vị này từng giây từng khắc theo bảo vệ người trì tụng Chú Đại Bi.

“Ta sai Kim Sắc Khổng Tước Vương, Hai mươi tám bộ Đại Tiên chúng, Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.” “Khổng Tước Vương” chính là Đại Bàng Kim Sí Điểu (chim đại bàng cánh vàng). “Hai mươi tám bộ Đại Tiên chúng” tức là “nhị thập bát tú”—hai mươi tám vì tinh tú. Lúc giảng Kinh Lăng Nghiêm tôi đã giảng cho quý vị nghe cả rồi.

“Ta sai Ma Ni Bạt Đà La, Tán Chi Đại Tướng Phất La Bà, Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.” Quán Thế Âm Bồ tát lại phái Ma Ni Bạt Đà La cùng Tán Chi Đại Tướng Phất La Bà, vốn là những vị Kim Cang Hộ Pháp, đến ủng hộ người trì Chú Đại Bi. 

“Ta sai Nan Đà, Bạt Nan Đà, Bà Già La Long, Y Bát La, Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.” Nan Đà và Bạt Nan Đà đều là những vị Long Vương; còn Bà Già La Long và Y Bát La là Hộ Pháp của Long Vương.

“Ta sai Tu La, Càn Thát Bà, Ca Lâu, Khẩn Na, Ma Hầu La, Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.” Quán Thế Âm Bồ tát lại phái A Tu La cùng với Nhạc Thần Càn Thát Bà của Ngọc Đế, và luôn cả Ca Lâu Na, Khẩn Na La, Ma Hầu La thuộc Thiên Long Bát Bộ, tất cả phải thường xuyên theo phù hộ người trì tụng Chú Đại Bi.

“Ta sai Thủy, Hỏa, Lôi, Điển Thần, Cưu Bàn Trà Vương, Tỳ Xá Xà, Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.” “Thủy, hỏa, lôi điển thần” tức là thủy thần (thần nước), hỏa thần (thần lửa), lôi thần (thần sấm) và điển thần (thần sét). Cưu Bàn Trà và Tỳ Xá Xà vốn là quỷ, nay đều biến thành kẻ hộ pháp và cùng nhau bảo vệ người trì Chú. Cho nên, quý vị chỉ cần niệm Chú Đại Bi thì ngay cả ma cũng đến hộ pháp cho quý vị.

Kinh Văn:

“THỊ CHƯ THIỆN THẦN, CẬP THẦN LONG VƯƠNG, THẦN MẪU NỮ ĐẲNG, CÁC HỮU NGŨ BÁCH QUYẾN THUỘC ĐẠI LỰC DẠ XOA, THƯỜNG TÙY ỦNG HỘ TỤNG TRÌ ĐẠI BI THẦN CHÚ GIẢ.”

Nghĩa: “Các vị thiện thần cùng thần Long Vương, thần Mẫu Nữ này, mỗi vị có năm trăm Đại Lực Dạ-xoa làm quyến thuộc, thường theo ủng hộ người trì tụng Thần Chú Đại Bi.”

Lược giảng:

“Các vị thiện thần cùng thần Long Vương, thần Mẫu Nữ này, mỗi vị có năm trăm Đại Lực Dạ-xoa làm quyến thuộc.” Tất cả các vị thiện thần hộ Pháp kể trên—Thiên Long Bát Bộ, Tứ Thiên Vương, cùng hết thảy long chúng, quỷ chúng, thần chúng, và hết thảy Kim Cang Lực Sĩ, thần Long Vương, thần Mẫu Nữ, ...—mỗi một vị đều có năm trăm quyến thuộc. Những quyến thuộc ấy toàn là quỷ Đại Lực Dạ Xoa và tất cả đều “thường theo ủng hộ người trì tụng Thần Chú Đại Bi.”

Kinh Văn:

“KỲ NHÂN NHƯỢC TẠI KHÔNG SƠN KHOÁNG DÃ, ĐỘC TÚC CÔ MIÊN, THỊ CHƯ THIỆN THẦN, PHIÊN ĐẠI TÚC VỆ, TÍCH TRỪ TAI CHƯỚNG. 
NHƯỢC TẠI THÂM SƠN, MÊ THẤT ĐẠO LỘ, TỤNG THỬ CHÚ CỐ, THIỆN THẦN LONG VƯƠNG, HÓA TÁC THIỆN NHÂN THỊ KỲ CHÁNH ĐẠO. 
NHƯỢC TẠI SƠN LÂM KHOÁNG DÃ, PHẠT THIỂU THỦY HỎA, LONG VƯƠNG HỘ CỐ, HÓA XUẤT THỦY HỎA.”

Nghĩa: “Người đó, nếu ở nơi không sơn khoáng dã ngủ nghỉ một mình, các thiện thần này sẽ thay phiên túc trực bảo vệ, ngăn trừ tai chướng; nếu ở nơi thâm sơn quên đường lạc lối, tụng trì Chú này, thiện thần, Long Vương sẽ hóa làm thiện nhân chỉ đúng đường về; nếu ở nơi núi rừng khoáng dã, thiếu thốn nước lửa, Long Vương vì ủng hộ sẽ biến hóa ra nước lửa.”

Lược giảng:

Quán Thế Âm Bồ-tát nói tiếp: “Người đó, nếu ở nơi không sơn khoáng dã ngủ nghỉ một mình...” “Không sơn” tức là nơi vắng vẻ, không có người ở. “Khoáng dã” là nơi rất hoang vu, rất ít người lai vãng. Như vậy, giả sử người trì Chú Đại Bi đó sống đơn độc một mình ở chốn núi rừng hoang vắng để tu hành, thì “các thiện thần này sẽ thay phiên túc trực bảo vệ.” 
“Thay phiên (phiên đại)” tức là luân phiên, lần lượt thay phiên nhau. Chẳng hạn vị thiện thần này tức trực bảo vệ trong hai tiếng đồng hồ, sau đó có vị khác đến thay thế; vị mới đến này canh gác được hai tiếng đồng hồ thì lại có một vị khác nữa đến gác thay. Hoặc là, vị rồng này đến túc trực bảo vệ được hai giờ đồng hồ thì có vị thần đến bảo: “Hết phiên của ngài rồi, ngài hãy về nghỉ đi. Bây giờ đến lượt tôi bảo vệ người này!” Rồi hai tiếng đồng hồ sau thì có thể là đứa con trai lớn của Quỷ Tử Mẫu xuất hiện và nói: “Hết phiên trực của ngài rồi đấy, chắc ngài cũng tired lắm rồi. Ngài hãy về nghỉ ngơi đi, tôi sẽ ở đây tiếp tục bảo vệ người này!” Đó gọi là “phiên đại túc vệ,” tức là thay phiên nhau túc trực để sẵn sàng bảo vệ người trì Chú Đại Bi.

“Ngăn trừ tai chướng.” Người trì Chú Đại Bi đó nếu có tai nạn gì thì đều được tiêu trừ, tai qua nạn khỏi, bình an vô sự; nếu có chướng ngại gì thì cũng được hóa giải, không thể xảy ra.

“Nếu ở nơi thâm sơn mà quên đường lạc lối, tụng trì Chú này, thiện thần, Long Vương sẽ hóa làm thiện nhân chỉ đúng đường về.” Giả sử quý vị đi vào sâu trong núi và bị lạc đường, mất phương hướng, không phân biệt được đông tây nam bắc là đâu với đâu; lại thêm cây cối um tùm rậm rạp che khuất ánh sáng mặt trời, khiến cho quý vị càng thêm hoang mang bối rối, không biết phải theo hướng nào mà đi cho đúng. Bấy giờ, nếu quý vị có thể tụng niệm Chú Đại Bi thì chư thiện thần cùng Long Vương sẽ biến thành người để chỉ đường cho quý vị: “Hãy đi về phía này!” và dẫn đường cho quý vị.

“Nếu ở nơi núi rừng khoáng dã, thiếu thốn nước lửa, Long Vương vì ủng hộ sẽ biến hóa ra nước lửa.” Giả sử người trì tụng Chú Đại Bi phải ở chốn thâm sơn cùng cốc, hoang vu vắng vẻ, chịu thiếu thốn mọi bề, hoàn toàn không có nước và cũng chẳng có lửa, thì Long Vương vì muốn bảo vệ và giúp đỡ người đó, sẽ biến hóa ra nước và lửa cho người đó dùng. 

Bây giờ tôi tổng hợp bài Chú Đại Bi, tóm tắt ý nghĩa toàn bài bằng bốn câu kệ như sau:

Đại Bi Đại Chú thông địa thiên,
Nhất bách nhất thiên Thập Vương hoan,
Đại bi đại từ năng khử bệnh,
Nghiệt kính nhất chiếu biển cao huyền.

(Đại Chú Đại Bi xuyên trời đất,
Ngàn ngày trăm biến, mười vua vui,
Đại từ đại bi trừ bệnh tật,
Gương nghiệt soi tới, biển treo cao!)

“Đại Bi Đại Chú thông địa thiên” (Đại Chú Đại Bi xuyên trời đất). Ở đây có Đại Chú đại từ đại bi, vốn là “Chú trung chi vương” (vua trong các loại Chú), thông thiên triệt địa, suốt trời thấu đất. Một khi quý vị niệm Chú Đại Bi thì các vị thần ở cõi trời đều kính cẩn đến lắng nghe. Cả các loài quỷ cũng vậy, ai nấy đều cung kính chắp tay và quỳ xuống yên lặng lắng nghe quý vị tụng Chú Đại Bi. Vì sao Chú Đại Bi có công năng hàng phục thiên ma, chế ngự ngoại đạo? Bởi vì bè lũ thiên ma ngoại đạo hễ nghe tới Chú Đại Bi thì chẳng khác nào nhận được hiệu lệnh, tất cả đều phải răm rắp y theo mệnh lệnh mà thi hành.

“Nhất bách nhất thiên Thập Vương hoan” (ngàn ngày trăm biến, mười vua vui). Một ngàn ngày tức là ba năm. Nếu quý vị mỗi ngày có thể tụng Chú Đại Bi đủ một trăm lẻ tám (108) biến, và cứ đều đặn tụng niệm như thế trong ba năm—hoặc là mỗi ngày tụng một ngàn biến và tụng suốt ba năm thì càng tốt hơn nữa—thì Thập Điện Diêm Quân (mười vua Diêm La cai quản mười điện) ở địa ngục sẽ sanh lòng hoan hỷ, và bảo rằng: “Hay lắm! Người này đang tu Chú Đại Bi!” Nếu có thể tu pháp Đại Bi, niệm Chú Đại Bi một trăm lẻ tám biến, đồng thời lại có thể tu pháp Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn nữa, thì sẽ được rất nhiều lợi ích, công hiệu gấp bội,

“Đại bi đại từ năng khử bệnh” (đại từ đại bi trừ bệnh tật). Như tôi đã nói ở phần trước, trên thế gian này có tám vạn bốn ngàn thứ bệnh, nếu quý vị thành tâm trì niệm Chú Đại Bi thì đều trị lành được cả.

“Nghiệt kính nhất chiếu biển cao huyền” (gương nghiệt soi tới, biển treo cao). Trong địa ngục, ở chỗ của Thập Điện Diêm Quân có một đài gương, trên đó đặt một tấm gương soi, gọi là “nghiệt kính đài” (đài gương soi tội). Vì sao gọi là “nghiệt kính đài”? Khi đọa địa ngục, nhìn vào gương soi tội này thì quý vị sẽ thấy hiện lên tất cả những tội nghiệt mà mình đã gây tạo lúc còn sống. Mọi hành vi, việc làm của quý vị đều hiện ra trong gương—rõ ràng từng cảnh mục, từng chi tiết, chẳng khác nào trên màn ảnh xi-nê vậy. Chẳng hạn trước kia quý vị đã từng giết người, thì trong gương sẽ hiện rõ cảnh giết chóc đó. Quý vị hoặc là đã từng ăn trộm ăn cướp, làm điều bất chánh, ăn gian nói dối, rượu chè cờ bạc... nhất nhất mọi hành vi của quý vị trước đây đều hiện ra đầy đủ trong tấm “nghiệt kính,” chẳng sót điều gì.

Nếu quý vị là người trì tụng Chú Đại Bi thì khi dùng nghiệt kính để soi sẽ không thấy hiện lên gì cả, bởi mọi tội nghiệt mà quý vị gây ra đều đã tiêu tan, không còn nữa. Bấy giờ, trong địa ngục sẽ treo cho quý vị một tấm biển, trên đó có viết rằng: “Tất cả quỷ thần đều phải cung kính, tôn trọng người này. Đây là một người thọ trì Chú Đại Bi.” Và đó là ý nghĩa của câu “nghiệt kính nhất chiếu biển cao huyền.”


KINH VĂN: 


Âm: 

QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT PHỤC VỊ TỤNG TRÌ GIẢ, THUYẾT TIÊU TRỪ TAI HỌA THANH LƯƠNG CHI KỆ:
“NHƯỢC HÀNH KHOÁNG DÃ SƠN TRẠCH TRUNG,
PHÙNG TRỊ HỔ LANG CHƯ ÁC THÚ,
XÀ, NGOAN, TINH, MỊ, VỌNG LƯỢNG QUỶ,
VĂN TỤNG THỬ CHÚ MẠC NĂNG HẠI.”

Nghĩa: 

Quán Thế Âm Bồ-tát lại vì kẻ tụng trì mà tuyên thuyết bài kệ Thanh Lương tiêu trừ tai họa rằng:
“Nếu vào chốn núi hồ hoang vắng,
Gặp những cọp, sói, các thú dữ,
Rắn, rít, tinh, mị, quỷ vọng lượng…,
Nghe tụng Chú này chẳng dám hại.” 



LƯỢC GIẢNG: 

Quán Thế Âm Bồ-tát lại vì kẻ tụng trì mà tuyên thuyết bài kệ Thanh Lương tiêu trừ tai họa rằng ... Lúc bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ-tát lại vì những người trì tụng Chú Đại Bi mà nói bài kệ tụng về việc tiêu trừ mọi tai chướng, đạt được sự thanh lương, thảnh thơi, thanh thản.

“Nếu vào chốn núi hồ hoang vắng.” “Khoáng dã” là nơi rất hoang vu vắng vẻ, cách cả mấy trăm dặm, mấy ngàn dặm không có người ở. Giả sử có người tụng trì Chú Đại Bi mà phải đi trong chốn núi rừng hoang vu, hoặc trong đầm lầy, hoặc ở sa mạc, thì người ấy có thể “gặp những cọp, sói, các thú dữ,/ Rắn, rít, tinh, mị, quỷ vọng lượng….” Người ấy có thể gặp phải loài cọp dữ hoặc chó sói vô cùng hung hãn, hoặc vô số loài ác thú, ác điểu khác. Ngoài ra, cũng có thể phải đương đầu với loài rắn đen, hoặc yêu tinh và các loài quỷ lị mị, vọng lượng nữa.

“Nghe tụng Chú này chẳng dám hại.” Tuy nhiên, nếu nghe thấy quý vị tụng Chú Đại Bi thì chúng chẳng thể nào đến làm hại quý vị được, không có cách nào làm phiền hoặc gây trở ngại cho quý vị được.



KINH VĂN: 

Âm: 

“NHƯỢC HÀNH GIANG HỒ THƯƠNG HẢI GIAN,
ĐỘC XÀ, GIAO LONG, MA KIỆT THÚ,
DẠ XOA, LA SÁT, NGƯ, QUY, MIẾT,
VĂN TỤNG THỬ CHÚ TỰ TÀNG ẨN.”

Nghĩa: 

“Nếu đi biển cả hoặc sông hồ,
Rắn độc, giao long, loài Ma kiệt,
Dạ xoa, La sát, cá, rùa, trạnh,
Nghe tụng Chú này tự lẩn trốn.”

LƯỢC GIẢNG:

“Nếu đi biển cả hoặc sông hồ.” “Thương hải” (biển xanh) tức là “đại hải,” biển cả. Giả sử quý vị phải đi qua con sông lớn, ao hồ lớn hoặc biển lớn, và những nơi đó thường có các loài “rắn độc, giao long, loài Ma kiệt,/ Dạ xoa, La sát, cá, rùa, trạnh” cư ngụ. “Giao long” là một loại rồng độc.

“Ma kiệt” là một loại đại quái thú sống ở dưới nước hoặc trên lục đia. Lại còn có thể có quỷ Dạ xoa, quỷ La sát, đại ngư tinh, đại điểu quy tinh, miết tinh

“Nghe tụng Chú này tự lẩn trốn.” Nếu quý vị niệm Chú Đại Bi thì những quái vật đó sẽ không làm hại quý vị, mà đều chạy trốn mất biệt, chẳng còn tác oai tác quái nữa!


KINH VĂN:

Âm: 

“NHƯỢC PHÙNG QUÂN TRẬN TẶC VI NHIỄU,
HOẶC BỊ ÁC NHÂN ĐOẠT TÀI BẢO,
CHÍ THÀNH XƯNG TỤNG ĐẠI BI CHÚ,
BỈ KHỞI TỪ TÂM PHỤC ĐẠO QUY.”

Nghĩa: 

“Nếu gặp quân trận giặc bao vây,
Hoặc bị người ác đoạt tiền của,
Chí thành xưng tụng Chú Đại Bi,
Họ phát từ tâm, tự quay về.”


LƯỢC GIẢNG:

“Nếu gặp quân trận giặc bao vây.” Giả sử đất nước gặp cảnh chiến tranh, quý vị phải xông pha trước quân trận cùng giao chiến với địch quân; hoặc bị bọn thổ phỉ bao vây, muốn sát hại quý vị; “hoặc bị người ác đoạt tiền của,” hoặc gặp bọn người bất lương, cướp đoạt tiền bạc tài sản của quý vị. 

Trong hoàn cảnh đó, quý vị hãy “chí thành xưng tụng Chú Đại Bi.” Thế nào gọi là “chí thành”? Đó là chuyên tâm nhất ý, thiết tha thành khẩn, không có vọng tưởng nào khác.

“Họ phát từ tâm, tự quay về.” “Họ” tức là bọn thổ phỉ, những tên đạo tặc. Kẻ đạo tặc vốn không có lòng từ bi, mà chỉ có tánh “Tu la”; nhưng nhờ “cảm ứng đạo giao” do quý vị niệm Chú Đại Bi, cho nên mặc dù là người không có từ bi tâm, cũng phải sanh lòng từ bi, không muốn cướp đoạt của cải nữa, mà tự động rút lui, trở về. Họ đến từ nơi nào thì trở về lại nơi đó.


KINH VĂN:

Âm: 

“NHƯỢC VI VƯƠNG QUAN THÂU LỤC THÂN,
LINH NGỮ CẤM BẾ NỮU GIÀ TỎA,
CHÍ THÀNH XƯNG TỤNG ĐẠI BI CHÚ,
QUAN TỰ KHAI ÂN THÍCH PHÓNG HOÀN.”


Nghĩa: 

“Nếu bị lệnh vua quan bắt bớ,
Giam cầm, xiềng xích, lại gông cùm,
Chí thành xưng tụng Chú Đại Bi,
Quan tự khai ân phóng thích về.”


LƯỢC GIẢNG:

“Nếu bị lệnh vua quan bắt bớ,/ Giam cầm, xiềng xích, lại gông cùm.” Nếu quý vị có phạm pháp hoặc không phạm pháp mà bị chính phủ bắt giam vào tù. “Linh ngữ” tức là nhà tù. “Cấm bế” có nghĩa là bị nhốt, bị giam giữ trong ngục, tù túng, không còn được tự do nữa. “Nữu” là còng tay, xích chân. “Già tỏa” là gông đầu và xiềng xích. Lại còn buộc quý vị phải đeo còng nơi tay, cùm nơi chân, cổ bị đóng gông đeo xiềng. 

“Chí thành xưng tụng Chú Đại Bi,/ Quan tự khai ân phóng thích về.” Gặp cảnh ngộ như thế, quý vị thành tâm khẩn thiết tụng niệm Chú Đại Bi Đà La Ni, thì quan sẽ khai ân. “Khai ân” tức là ân xá, tha thứ, nhận thấy rằng quý vị vô tội, bèn phóng thích, cho quý vị trở về nhà.


KINH VĂN:

Âm: 

“NHƯỢC NHẬP DÃ ĐẠO CỔ ĐỘC GIA,
ẨM THỰC HỮU DƯỢC DỤC TƯƠNG HẠI,
CHÍ THÀNH XƯNG TỤNG ĐẠI BI CHÚ,
ĐỘC DƯỢC BIẾN THÀNH CAM LỒ TƯƠNG.”


Nghĩa: 

“Vào nhà ngoại đạo dùng tà thuật,
Ở thức uống, ăn có yếm độc,
Chí thành xưng tụng Chú Đại Bi,
Thuốc độc biến thành nước Cam Lồ.”


LƯỢC GIẢNG:

Vào nhà ngoại đạo dùng tà thuật ( nguyên văn câu Hán Việt: “Nhược nhập dã đạo, cổ độc gia.”) “Dã đạo” tức là bàng môn tả đạo, bởi vì họ không giữ chánh quy nên gọi là “dã đạo.” “Cổ,” ở Trung Hoa gọi là “lạc cáng đầu” [luò gàng tóu], có một loại “cổ thuật” là cho người ta uống ly nước trà, uống vào thì bị trúng “cổ”; hoặc cho một chút thức ăn, ăn vào cũng trúng “cổ”; hoặc là để một món đồ gì đó ngoài đường, quý vị nhặt lên thì liền bị trúng độc. Bà Ma Đăng Già (phái ngoại đạo Hoàng Phát) đã dùng chú Tiên Phạm Thiên, đều gọi là “cổ độc.” Đây đều gọi là “cổ độc gia.”

“Ở thức uống, ăn có yếm độc.” Hoặc là trong thức ăn, họ trộn “cổ độc” vào để ám hại quý vị.

“Chí thành xưng tụng Chú Đại Bi.” Lúc bấy giờ, nếu quý vị chí thành xưng tụng Thần Chú Đại Bi Đà La Ni, thì “thuốc độc biến thành nước Cam Lồ.” Tuy là “cổ độc,” cũng sẽ biến thành mùi vị cam lồ!


KINH VĂN:

Âm: 

“NỮ NHÂN LÂM NẠN SANH SẢN THỜI,
TÀ MA GIÀ CHƯỚNG KHỔ NAN NHẪN,
CHÍ TÂM XƯNG TỤNG ĐẠI BI CHÚ,
QUỶ THẦN THOÁI TÁN AN LẠC SANH.”


Nghĩa: 

“Phụ nữ lâm nguy lúc sanh sản,
Tà ma ngăn trở, khổ khó cam, 
Chí tâm xưng tụng Chú Đại Bi,
Quỷ thần rút lui, sanh bình yên.”


LƯỢC GIẢNG:

“Phụ nữ lâm nguy lúc sanh sản.” Việc sanh nở có trường hợp sanh khó, người mẹ đau đớn quằn quại có khi suốt một hai ngày mà vẫn không sanh được; thậm chí ba hôm, năm hôm cũng chưa sanh được. Ôi! Lúc đó người mẹ đau đớn tột cùng!

“Tà ma ngăn trở, khổ khó cam.” Vì sao sản phụ lại lâm vào tình cảnh ấy? Bởi vì có yêu ma quỷ quái đến cản trở, làm cho sản phụ vô cùng đau đớn khổ sở, không dễ gì mà chịu đựng được.
Tôi còn nhớ ở Đông Bắc, lúc tôi đang thủ hiếu bên mộ phần thân mẫu, có một phụ nữ họ Đường nọ đau đẻ [chuyển dạ] đã ba hôm mà vẫn chưa sanh được. Về sau người nhà đến tìm, tôi để thỉnh giáo, hỏi tôi phải làm sao cho sản phụ sanh nở được dễ dàng. Tôi bèn khuyên họ niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát và tụng Chú Đại Bi. Về nhà trì niệm chưa được bao lâu thì quả nhiên sanh được; tuy nhiên đứa bé sơ sinh thì đã chết rồi, còn người mẹ thì được vô sự, không việc gì. Cho nên, đây đều có sự cảm ứng đặc biệt của Quán Thế Âm Bồ tát cả.

“Chí tâm xưng tụng Chú Đại Bi, / Quỷ thần rút lui, sanh bình yên.” Lúc bấy giờ, quý vị chí thành khẩn thiết trì niệm Chú Đại Bi Đà La Ni, thì quỷ thần nghe thấy sẽ bỏ chạy tán loạn, sản phụ sẽ không bị nguy hiểm nữa.


KINH VĂN:

Âm: 

“ÁC LONG DỊCH QUỶ HÀNH ĐỘC KHÍ,
NHIỆT BỆNH XÂM LĂNG MẠNG DỤC CHUNG,
CHÍ TÂM XƯNG TỤNG ĐẠI BI CHÚ,
DỊCH BỆNH TIÊU TRỪ THỌ MẠNG TRƯỜNG.”

Nghĩa: 

“Ác long, dịch quỷ gieo độc khí,
Bệnh sốt xâm nhập sắp mạng chung,
Chí tâm xưng tụng Chú Đại Bi,
Bệnh dịch tiêu trừ, tuổi thọ tăng.”


LƯỢC GIẢNG:

“Ác long, dịch quỷ gieo độc khí.” “Rồng” thì có rồng ở trên trời (thiên long), có rồng sống ở biển, có rồng sống trên đất liền. Rồng lại có rất nhiều chủng loại—rồng độc (độc long), rồng dữ (ác long), rồng đen (hắc long), rồng trắng (bạch long), rồng lửa (hỏa long), và còn có cả rồng vàng (kim long) nữa. Tại miền Đông Bắc nước Trung Hoa, có một tỉnh lỵ có tên là tỉnh Hắc long giang, bởi có dính líu tới chuyện một con rồng đen. Con rồng đen này thường xuất hiện trên sông nước, cho nên con sông đó được gọi là “Hắc long giang.”

“Dịch” tức là ôn dịch. Bệnh ôn dịch, hoặc là bệnh tả [hoắc loạn=hùo lùan], hoặc các bệnh truyền nhiễm khác, đều do loài “dịch quỷ” tác oai tác quái. Loài “dịch quỷ” này đem vi khuẩn mầm bệnh hại người gieo rắc khắp nơi, người nào hít phải khí độc do chúng tán rải thì liền sanh bệnh, có thể chết.

“Bệnh sốt xâm nhập sắp mạng chung.” Bệnh nhân bị nóng sốt, bệnh thâm nhập vào cơ thể, sắp kết thúc sanh mạng, cái chết đang cận kề.

“Chí tâm xưng tụng Chú Đại Bi,/ Bệnh dịch tiêu trừ, tuổi thọ tăng.” Nếu quý vị có thể chí thành khẩn thiết niệm Chú Đại Bi thì bệnh ôn dịch sẽ bị tiêu tan, không còn nữa, thọ mạng cũng có thể lâu dài hơn.


KINH VĂN: 

Âm: 

LONG QUỶ LƯU HÀNH CHƯ ĐỘC THŨNG,
UNG SANG HUYẾT THỐNG PHẢ KHAM,
CHÍ TÂM XƯNG TỤNG ĐẠI BI CHÚ,
TAM THÓA ĐỘC THŨNG TÙY KHẨU TIÊU.


Nghĩa: 

“Rồng, quỷ lưu hành bệnh thũng độc,
Ung nhọt lở loét đau nhức nhối,
Chí tâm xưng tụng Chú Đại Bi,
Thổi qua ba lần độc thũng tiêu.”


LƯỢC GIẢNG:

“Rồng, quỷ lưu hành bệnh thũng độc.” Có loài rồng hoặc quỷ thường đi gieo rắc mầm độc, trúng vào ai thì khắp mình mẩy đều bị sưng phù lên. 

“Ung nhọt lở loét đau nhức nhối.” Hoặc là sanh bệnh ung thư, mọc ra nhiều mụn nhọt. “Ung thư” tức là trên người mọc ra một vài cục u. “Sang” là mụn nhọt có khi lở loét máu mủ chảy ra. Các chứng bệnh này vô cùng đau đớn khổ sở, con bệnh không thể nào chịu đựng nổi, cho nên nói là “thống phả kham,” tức là không dễ gì mà nhẫn chịu được, nhức nhối đến nỗi không cách nào chịu đựng thêm nữa.

“Chí tâm xưng tụng Chú Đại Bi.” Lúc bấy giờ, nếu quý vị chí tâm thành khẩn tụng Chú Đại Bi, thì chỉ cần “thổi qua ba lần độc thũng tiêu.” Quý vị niệm Chú Đại Bi, rồi lấy hơi thổi ra ba lần nơi mụn nhọt đó. “Tam thóa” tức là ba luồng hơi thở. Ba hơi thở này quý vị thấy thì rất bình thường, song lại làm cho chỗ sưng xẹp xuống và tiêu tan; rất là kỳ lạ!


KINH VĂN:

Âm: 

CHÚNG SANH TRƯỢC ÁC KHỞI BẤT THIỆN,
YẾM MỊ CHÚ THƯ KẾT OÁN THÙ,
CHÍ TÂM XƯNG TỤNG ĐẠI BI CHÚ,
YẾM MỊ HOÀN TRƯỚC Ư BỔN NHÂN.


Nghĩa: 

“Chúng sanh ác trược khởi lòng ác,
Trù ếm thư chú kết oán thù,
Chí tâm xưng tụng Chú Đại Bi,
Trù ếm trở về người trù yếm.”


LƯỢC GIẢNG:

“Chúng sanh ác trược, lòng bất thiện.” Có nhiều chúng sanh, quý vị bảo họ sanh thiện tâm thì họ không chịu nghe theo, nhưng bảo họ hãy thường xuyên sanh lòng bất thiện, tâm đố kỵ, tâm chướng ngại, thì họ lại nảy sanh những thứ tâm ấy rất dễ dàng.

“Trù ếm thư chú kết oán thù.” “Yếm mị chú thư” tức là tà chú, tà thuật thư ếm hại người. Có phái ngoại đạo dường như có một loại chú thư. Trong Mật Tông chẳng hạn, có một loại chú mà kẻ nào niệm được bài chú này, tu luyện được thứ phép thuật này, thì nội trong bảy ngày, kẻ ấy bảo quý vị chết thì quý vị sẽ chết, bảo quý vị sống thì quý vị được sống. Cho nên, Mật Tông xem ra cũng rất lợi hại! Quý vị nào có bạn bè theo Mật Tông thì cần phải cẩn thận một chút! Nếu quý ý đắc tội với họ, thì coi chừng họ sẽ niệm chú cho quý vị chết! Thế nhưng, đây chính là một thứ tánh nết của A tu la, không có tâm từ bi. Như vậy tức là “yếm mị.”

Họ làm một “tiểu nhân” tức là một hình nhân nho nhỏ, trên đó có ghi rõ “sanh thần bát tự” [năm tháng ngày giờ sinh viết theo can chi] của quý vị; rồi hôm nay thì lấy kim chọc vào mắt hình nhân cho mù, ngày mai dùng kim đâm vào tai hình nhân cho điếc, ngày mốt lấy kim châm vào cổ họng hình nhân—và bấy giờ quý vị sẽ bị đứt hơi mà chết! Đây là phép thuật của bàng môn tả đạo. 
Tuy nhiên, quý vị chớ nên sợ hãi, chỉ cần quý vị có thể niệm Chú Đại Bi, thì họ có dùng phép thuật gì cũng đều không công hiệu cả.

“Kết oán thù.” “Kết” tức là cột vào với nhau; “oán thù” tức là thù hận vô cùng sâu nặng.

“Chí tâm xưng tụng Chú Đại Bi.” Bấy giờ, quý vị chí thành khẩn thiết xưng tụng Thần chú Đại Bi, thì “trù ếm trở về nơi bổn nhân.” Họ muốn ám hại người khác, nhưng các phép thuật độc ác đó lại trở về nơi thân họ, khiến họ tự thọ quả báo!


KINH VĂN: p 166

Âm: 

ÁC SANH TRƯỢC LOẠN PHÁP DIỆT THỜI,
DÂM DỤC HỎA THẠNH TÂM MÊ ĐẢO,
KHÍ BỐI THÊ TẾ NGOẠI THAM NHIỄM,
TRÚ DẠ TÀ TƯ VÔ TẠM ĐÌNH.


Nghĩa: 

“Chúng sanh ác trược thời Mạt Pháp,
Lửa dâm thiêu đốt, tâm mê loạn,
Ngoại tình, bỏ vợ, bỏ chồng con,
Ngày đêm tà tưởng không dừng nghỉ.”


LƯỢC GIẢNG:

“Khi Pháp diệt, ác sanh trược loạn.” Thời Mạt Pháp, đầy dẫy tội ác, cõi Ngũ trược ác thế rối ren loạn lạc, Phật Pháp cũng bị hủy diệt. Lúc bấy giờ, “lửa dâm lớn mạnh, tâm mê đảo.” 

Một số người trong chúng ta hiện nay, tâm dâm dục nặng hơn tâm học Phật Pháp. Những người đó không hề nghĩ rằng: “Hằng ngày tôi đều nghiên cứu Phật Pháp, không ngừng tìm tòi học hỏi. Ngủ không được thì tôi nghiên cứu Phật Pháp; lúc thức dậy thì tôi càng nên học hỏi Phật Pháp nhiều hơn nữa!” Họ không nghĩ như thế! Trằn trọc, ngủ không được, họ lại sanh tâm dâm dục, cứ thấy rằng nghiên cứu Phật Pháp chẳng ý vị gì cả. Một khi dâm tâm dấy khởi, họ cảm thấy đó là điều vô cùng thích thú kỳ diệu, và đó là một thứ vô minh đang chi phối họ đến tâm thần điên đảo, mê muội! 

Quán Thế Âm Bồ tát đã sớm biết rằng con người ở thời Mạt Pháp là như vậy—tâm trí mê loạn điên đảo. “Mê” tức là không còn tỉnh táo, sáng suốt nữa. Cũng như người nào đó, gặp bạn gái là mừng rỡ tíu tít, quên hết mọi chuyện chung quanh; như thế cũng gọi là “mê đảo,” confused! Thật là kỳ lạ!
“Vợ chồng ruồng bỏ, sanh ngoại tình.” “Khí” tức là phao khí, bỏ rơi, ruồng bỏ. “Bối” tức là vị bối. “Thê” là vợ; “tế” tức là chồng. Hoặc là người vợ lén lút tìm người đàn ông khác, kiếm tình phu; hoặc là người chồng vụng trộm tìm người đàn bà khác, kiếm tình phụ. “Tham nhiễm” tức là vì phát tiết lửa dâm dục; cho nên đây gọi là “ngoại tham nhiễm,” ra ngoài để tham nhiễm.

“Ngày đêm tà tưởng chẳng tạm dừng.” Ban ngày tơ tưởng đến việc này, tối đến cũng nghĩ ngợi về chuyện này—trong từng giây từng khắc, cái ý nghĩ tà vạy, không chánh đáng này cứ không ngừng lởn vởn trong đầu óc. Quý vị cũng biết đấy, có nhiều người đi nhà thờ không phải để làm lễ Misa, mà chủ yếu là để tìm đối tượng; cả nam và nữ đều có tư tưởng như thế. Có người thì đến trường không phải để học hành, mà là muốn tìm đối tượng. Vậy, lửa dâm dục đương mạnh mẽ, dù là tạm thời cũng không đình chỉ được.


KINH VĂN: 

Âm: 

NHƯỢC NĂNG XƯNG TỤNG ĐẠI BI CHÚ,
DÂM DỤC HỎA DIỆT, TÀ TÂM TRỪ.
NGÃ NHƯỢC QUẢNG TÁN CHÚ CÔNG LỰC,
NHẤT KIẾP XƯNG DƯƠNG VÔ TẬN KỲ.”


Nghĩa: 

“Nếu thường xưng tụng Chú Đại Bi,
Lửa dâm dục tắt, tà tâm dứt.
Công lực Thần Chú nếu xưng tán
Hết kiếp xưng dương không cùng tận.”


LƯỢC GIẢNG:

“Nếu thường xưng tụng Chú Đại Bi.” Trong lúc này, nếu quý vị có thể xưng niệm Chú Đại Bi, thì “lửa dâm dục tắt, tà tâm dứt.” Lửa dâm dục trong lòng quý vị sẽ tàn lụi dần dần rồi tắt ngấm, và tà tâm cũng từ từ được trừ khử.

Giảng đến đây tôi muốn lưu ý quý vị một điều—quý vị, bất luận là nam hay nữ, nếu tâm dâm dục quá lớn mạnh, sung mãn, thì quý vị có thể ngày ngày chí thành khẩn thiết xưng tụng Chú Đại Bi, lâu dần dâm tâm sẽ bị tiêu diệt, tà tri tà kiến cũng bị trừ khử!

“Công lực Thần Chú nếu xưng tán.” Quán Thế Âm Bồ tát nói rằng: “Nếu tôi tán thán công đức từ năng lực của Chú Đại Bi một cách rộng rãi, thì e rằng hết kiếp xưng dương không cùng tận. Cho dù tôi có xưng dương tán thán Chú Đại Bi trong mọi thời, ở mọi chốn, tại mọi kiếp, thì cũng không thể nào nói hết được!”


KINH VĂN: 

Âm: NHĨ THỜI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT CÁO PHẠM THIÊN NGÔN: “TỤNG THỬ CHÚ NGŨ BIẾN, THỦ NGŨ SẮC TUYẾN TÁC SÁCH. CHÚ NHỊ THẬP NHẤT BIẾN, KẾT TÁC NHỊ THẬP NHẤT KẾT HỆ HẠNG. THỬ ĐÀ-LA-NI THỊ QUÁ KHỨ CỬU THẬP CỬU ỨC HẰNG HÀ SA CHƯ PHẬT SỞ THUYẾT.”


Nghĩa: 

Lúc bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ Tát bảo Phạm Thiên [Vương] rằng: “Nếu chúng sanh nào muốn tiêu trừ tai chướng ma nghiệp, thì nên lấy chỉ ngũ sắc xe làm sợi niệt. Trước tiên tụng năm biến, kế đến tụng hai mươi mốt biến, cứ tụng mỗi biến lại thắt một gút, cho đến hai mươi mốt gút như vậy, rồi đeo nơi cổ. Tâm Chú Đại Bi này là do chín mươi chín ức hằng hà sa chư Phật quá khứ đã từng tuyên thuyết.”


LƯỢC GIẢNG:

Lúc bấy giờ, sau khi thuyết xong bài kệ, Quán Thế Âm Bồ Tát bảo Phạm Thiên rằng: “... tụng Chú này năm biến ...” Vì sao lại tụng năm biến? Bởi vì trên thế giới này có năm bộ lớn (Ngũ Đại Bộ):

-phương Đông là A Súc Bộ, còn gọi là Kim Cang Bộ;
-phương Nam là Bảo Sanh Bộ;
-phương Tây là Liên Hoa Bộ;
-phương Bắc là Yết Ma Bộ;
-trung ương là Phật Bộ.

Năm biến Chú là tiêu biểu cho năm bộ nói trên. Năm bộ này cai quản cả năm đại ma quân—Đông, Tây, Nam, Bắc, Trung—của thế gian. Ma cũng có Đông, Tây, Nam, Bắc, Trung; Ngũ Bộ thống nhiếp Ngũ Đại Ma.

Như vậy, quý vị niệm Chú Đại Bi năm biến, rồi “lấy chỉ ngũ sắc xe làm sợi niệt.” “Ngũ sắc” tức là năm màu: xanh (dương), vàng, đỏ, trắng, đen. Màu xanh là tiêu biểu cho phương Đông, màu đỏ là phương Nam, màu trắng là phương Tây, màu đen là phương Bắc, và màu vàng là trung ương. Đó là tượng trưng cho Ngũ Phương, Ngũ Bộ.

“Tác sách” tức là bện thành sợi dây.

“Tụng Chú hai mươi mốt biến, thắt làm hai mươi mốt gút, rồi đeo vào cổ.” Bây giờ quý vị tụng Chú Đại Bi hai mươi mốt biến, và thắt hai mươi mốt gút thắt trên sợi dây ngũ sắc, xong lấy đeo nơi cổ.

“Đà La Ni này là do chín mươi chín ức hằng hà sa chư Phật đời quá khứ tuyên thuyết.” Đại Bi Đà La Ni này là pháp mà hằng hà sa số chư Phật đã nói ra.


Bồ Đề Hải 76


Kinh văn:

 

Âm: “BỈ ĐẲNG CHƯ PHẬT, VI CHƯ HÀNH NHÂN TU HÀNH LỤC ĐỘ VỊ MÃN TÚC GIẢ, TỐC LINH MÃN TÚC CỐ; VỊ PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM GIẢ, TỐC LINH PHÁT TÂM CỐ; NHƯỢC THANH VĂN NHÂN VỊ CHỨNG QUẢ GIẢ, TỐC LINH CHỨNG CỐ; NHƯỢC TAM THIÊN ĐẠI THIÊN THẾ GIỚI NỘI, CHƯ THẦN TIÊN NHÂN VỊ PHÁT VÔ THƯỢNG BỒ-ĐỀ TÂM GIẢ, TỐC LINH PHÁT TÂM CỐ; NHƯỢC CHƯ CHÚNG SANH VỊ ĐẮC ĐẠI THỪA TÍN CĂN GIẢ, DĨ THỬ ĐÀ-LA-NI UY THẦN LỰC CỐ, LINH KỲ ĐẠI THỪA CHỦNG TỬ PHÁP NHA TĂNG TRƯỞNG. DĨ NGÃ PHƯƠNG TIỆN TỪ BI LỰC CỐ, LINH KỲ SỞ TU, GIAI ĐẮC THÀNH BIỆN.”

 

Nghĩa: “Các đức Phật đó vì những hành giả tu hành Lục Độ chưa được đầy đủ mà khiến cho mau đầy đủ, vì những người chưa phát tâm Bồ Đề mà khiến cho mau phát tâm. Như hàng Thanh Văn chưa chứng quả thì khiến cho mau chứng quả; như các vị thần, tiên nhân trong Tam thiên đại thiên thế giới chưa phát tâm Vô thượng Bồ-đề thì khiến cho mau phát tâm.  

Nếu các chúng sanh nào chưa được tín căn Đại Thừa, thì do sức oai thần của Đà La Ni này, sẽ khiến cho mầm Pháp của hạt giống Đại Thừa tăng trưởng; lại do sức từ bi phương tiện của Ta, mà khiến cho sự mong cầu của họ đều được thành tựu.”

 

Lược giảng:  

[Quán Thế Âm Bồ-tát lại bảo Đại Phạm Thiên Vương:] “Các đức Phật đó vì những hành giả tu hành Lục Độ chưa được đầy đủ mà khiến cho mau đầy đủ.” Tất cả chư Phật đó có thể khiến cho những người tu tập hạnh Lục Độ mà còn chưa viên mãn, thảy đều được đến chỗ viên mãn.  

Lục Độ tức là sáu Độ—bố thí độ san tham, trì Giới độ hủy phạm, nhẫn nhục độ sân nhuế, tinh tấn độ giãi đãi, thiền định độ tán loạn, Bát Nhã độ ngu si.

 

1)  Bố thí độ san tham. Người nào nếu có lòng tham lam, bỏn sẻn, thì nên tập tu hạnh bố thí. Thế thì, những kẻ không có lòng tham lam, bỏn sẻn có cần phải thực hành hạnh bố thí chăng? Tất nhiên là họ càng cần phải làm bố thí hơn nữa! Cho nên nói rằng, nếu có thể làm hạnh bố thí, thì không còn tham lam, bỏn sẻn nữa. Đó chính là “bố thí độ san tham” vậy.

 

2)  Trì Giới độ hủy phạm. “Trì giới” tức là có thể giữ gìn quy củ, phép tắc. Người không tuân thủ quy củ tức là người không trì giới; người không trì giới tức là người không tín ngưỡng Phật Pháp. Sau khi Phật diệt độ, thì giới luật chính là thầy của các tín đồ Phật giáo.

 

3)   Nhẫn nhục độ sân nhuế. Nếu quý vị là người có tánh hay nóng giận thì quý vị nên tu hạnh nhẫn nhục. Quý vị không nên vì những chuyện nhỏ nhặt, cỏn con mà nổi giận; cũng đừng nên có lòng ích kỷ, nhỏ nhen. Không có tâm ích kỷ thì sẽ không dễ sanh lòng nóng giận, bực tức; mà không nóng giận thì đó chính là nhẫn nhục vậy!

 

4) Tinh tấn độ giãi đãi. Quý vị có thói lười biếng ư? Thì quý vị hãy tu tập hạnh tinh tấn, siêng năng ngay đi!

 

5) Thiền định độ tán loạn. Nếu quý vị cứ thích khởi vọng tưởng, luôn sanh tâm phan duyên, thì quý vị cần phải tu tập công phu thiền định. Có công phu thiền định rồi thì cái tâm tán loạn của quý vị cũng được “độ” mất, không còn nữa.

 

6) Bát Nhã độ ngu si. Sở dĩ chúng ta còn ngu si là vì chúng ta chưa có trí huệ; nếu chúng ta tu dưỡng trí huệ thì sẽ không còn ngu si nữa vậy.  

Khi bậc Bồ-tát tu hành Lục Độ mà chưa được viên mãn, rốt ráo, thì hãy phát tâm tu Đại Bi Pháp, bấy giờ hạnh tu Lục Độ của các ngài sẽ được viên mãn rất mau chóng.  

“Vì những người chưa phát tâm Bồ-đề mà khiến cho mau phát tâm.” Đối với những ai chưa phát tâm Bồ-đề Vô-thượng, nếu họ niệm Chú Đại Bi, thì họ sẽ được mau chóng phát Bồ-đề tâm.     

 “Như hàng Thanh Văn chưa chứng quả thì khiến cho mau chứng quả.” Nếu những người hàng Thanh Văn Nhị Thừa chưa chứng đến Sơ quả, Nhị quả, Tam quả, hoặc Tứ quả A La Hán, mà niệm Chú Đại Bi thì họ sẽ được chứng đắc quả vị rất mau chóng.  

“Như các vị thần, tiên nhân trong Tam thiên đại thiên thế giới chưa phát tâm Vô-thượng Bồ-đề thì khiến cho mau phát tâm. Trong cõi Tam thiên đại thiên, hết thảy các vị thần, tiên nhân nào chưa phát tâm Bồ-đề song lại có thể niệm Chú Đại Bi, thì họ đều sẽ được mau chóng phát tâm Bồ-đề Vô-thượng.  

“Nếu các chúng sanh nào chưa được tín căn Đại Thừa. Nếu hết thảy các chúng sanh chưa có được tín căn của Pháp Đại thừa, chưa tin tưởng Pháp Đại Thừa, song lại có thể niệm thần chú Đại Bi Đà La Ni Tổng Trì, thì do sức oai thần của Đà La Ni này, sẽ khiến cho mầm Pháp của hạt giống Đại Thừa tăng trưởng--thiện căn Đại Thừa, mầm pháp Bồ-đề của chủng tử Đại Thừa được lớn mạnh.  

“Lại do sức từ bi phương tiện của Ta, mà khiến cho sự mong cầu của họ đều được thành tựu.” Quán Thế Âm Bồ tát dạy rằng: “Ta dùng sức từ bi phương tiện của chính mình mà làm cho tất cả chúng sanh được toại nguyện, họ cần thứ gì thì đều được thứ ấy.” Sở cầu mãn nguyện, toại tâm như ý—đó gọi là “thành biện”. Chỉ cần quý vị niệm Chú Đại Bi là mọi sở cầu, sở nguyện đều được thành tựu; bất cứ việc gì cũng đều thực hiện được cả.

 

 

Bồ Đề Hải 77

 

Kinh văn:  

 

“HỰU TAM THIÊN ĐẠI THIÊN THẾ GIỚI, U ẨN ÁM XỨ, TAM ĐỒ CHÚNG SANH, VĂN NGÃ THỬ CHÚ, GIAI ĐẮC LY KHỔ. HỮU CHƯ BỒ-TÁT VỊ GIAI SƠ TRỤ GIẢ, TỐC LINH ĐẮC CỐ; NÃI CHÍ LINH ĐẮC THẬP TRỤ ĐỊA CỐ; HỰU LINH ĐẮC ĐÁO PHẬT ĐỊA CỐ, TỰ NHIÊN THÀNH TỰU TAM THẬP NHỊ TƯỚNG, BÁT THẬP TÙY HÌNH HẢO.

NHƯỢC THANH VĂN NHÂN VĂN THỬ ĐÀ-LA-NI, NHẤT KINH NHĨ GIẢ, TU HÀNH THƯ TẢ THỬ ĐÀ-LA-NI GIẢ, DĨ CHẤT TRỰC TÂM NHƯ PHÁP NHI TRỤ GIẢ; TỨ SA-MÔN QUẢ, BẤT CẦU TỰ ĐẮC.

NHƯỢC TAM THIÊN ĐẠI THIÊN THẾ GIỚI NỘI, SƠN HÀ THẠCH BÍCH, TỨ ĐẠI HẢI THỦY, NĂNG LINH DŨNG PHẤT; TU-DI SƠN CẬP THIẾT-VI SƠN, NĂNG LINH DAO ĐỘNG, HỰU LINH TOÁI NHƯ VI TRẦN; KỲ TRUNG CHÚNG SANH, TẤT LINH PHÁT VÔ THƯỢNG BỒ-ĐỀ TÂM.”

“Lại nữa, các chúng sanh trong Tam Đồ, chốn u ẩn hắc ám của Tam Thiên Đại Thiên thế giới, mà nghe được Chú này của Ta thì thảy đều được xa lìa khổ sở; có chư Bồ tát chưa ở ngôi vị Sơ Trụ thì khiến cho mau đắc được, thậm chí khiến cho đắc được Thập Trụ Địa, lại khiến cho đắc tới Phật Địa, tự nhiên thành tựu ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp tùy hình.

Nếu người Thanh Văn nghe Đà La Ni này thoảng qua tai một lần, rồi tu hành, biên chép Đà La Ni này, đem tâm chất trực mà như pháp an trụ, thì quả vị Tứ Sa-môn sẽ không cầu mà tự nhiên chứng đắc.

Trong cõi Tam Thiên Đại Thiên thế giới, tất cả núi, sông, vách đá, nước trong bốn biển lớn có thể bị làm cho sôi sục trào dâng, núi Tu Di cùng núi Thiết Vi có thể bị làm cho dao động, lại còn bị làm cho vỡ nát thành mảy bụi, các chúng sanh ở trong đó đều khiến cho phát tâm Vô thượng Bồ đề.”

 

Lược giảng:

Quán Thế Âm Bồ-tát nói tiếp: “Lại nữa, các chúng sanh trong Tam Đồ, chốn u ẩn hắc ám của Tam Thiên Đại Thiên thế giới...”

Trước đây, trong các buổi giảng kinh, chúng ta đã nhiều lần giảng về “tam thiên đại thiên thế giới,” song e rằng vẫn có người không còn nhớ, cho nên tôi sẽ giảng lại lần nữa.

Một nhật nguyệt (tức là một mặt trời và một mặt trăng), một núi Tu Di, một Tứ thiên hạ hợp lại thì gọi là một thế giới. Một ngàn nhật nguyệt, một ngàn núi Tu Di, một ngàn Tứ thiên hạ hợp lại thành một Tiểu thiên thế giới. Một ngàn Tiểu thiên thế giới hợp lại thì thành một Trung thiên thế giới. Một ngàn Trung thiên thế giới hợp lại thì thành một Đại thiên thế giới. Nhân vì chữ “thiên” (ngàn) được lặp lại đến ba lần (tức là ba lần ngàn thế giới kết hợp lại), cho nên gọi là “tam thiên đại thiên thế giới” (ba ngàn đại thiên thế giới).

Tuy rằng trong cõi Tam Thiên Đại Thiên thế giới này có rất nhiều mặt trời và mặt trăng, cùng rất nhiều núi Tu Di như thế, nhưng vẫn có rất nhiều nơi còn u ám tối tăm. “U” có nghĩa là đen tối; “ẩn” nghĩa là bị che đậy khiến người ta nhìn không thấy. Chốn “hắc ám” tức là nơi không có ánh sáng rọi vào—nơi mà người ta không trông thấy, cũng không nghe thấy được gì cả.

Thế thì, nơi tối tăm hắc ám đó là nơi nào? Đó chính là Tam Đồ! “Tam Đồ” là ba nẻo đường--địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh; lại cũng có thể nói rằng “Tam Đồ” là huyết đồ, đao đồ và hỏa đồ. Nói chung, đó là ba nơi không được tốt đẹp. Tuy rằng không phải là nơi tốt để ở, nhưng vẫn có loại chúng sanh do vì nghiệp báo của chính mình hiển hiện, nhất định phải trú ngụ ở những nơi đó. Song le, nếu các chúng sanh bị đọa lạc trong chốn tối tăm u ám, vĩnh viễn không thấy được ánh sáng mặt trời này “mà nghe được Chú này của Ta thì thảy đều được xa lìa khổ sở, được sự an vui.”

Vậy, đó là Chú gì? Đó là Chú Đại Bi - Đại Bi Tâm Đà La Ni. Vì sao các chúng sanh đó được xa lìa khổ ải, đạt được an vui? Đó là nhờ được nghe Chú Đại Bi nên tất cả bọn họ đều được thoát khổ! Đây là các chúng sanh trong ba đường ác nhờ nghe Chú Đại Bi mà đạt được sự lợi ích như thế.

Lại nữa, nếu như “có chư Bồ tát chưa ở ngôi vị Sơ Trụ thì khiến cho mau đắc được, thậm chí khiến cho đắc được Thập Trụ Địa.” Đây có lẽ là nói về các bậc Bồ tát sơ phát tâm, chưa chứng đắc quả vị Sơ Trụ. Quý vị có biết “Sơ Trụ” là gì không? Không có người nào biết sao? Hiện giờ, chữ đó nằm ở dòng đầu tiên trên bảng, được viết thật rõ ràng rành mạch; và Quả Tu đã giảng cho quý vị nghe rồi, quý vị quên cả rồi hay sao?

Phát Tâm Trụ chính là Sơ Trụ. Vậy, nếu có vị Bồ tát nào chưa đắc quả vị Phát Tâm Trụ mà trì niệm Chú Đại Bi thì vị ấy liền được phát tâm, đắc được Phát Tâm Trụ rất nhanh chóng; thậm chí cả Thập Trụ và Thập Địa cũng đều có thể đắc được.

Trong Thập Trụ thì trụ vị thứ mười là gì? Đó là Quán Đảnh Trụ. Trong Thập Địa, khởi đầu là Hoan Hỷ Địa, thứ đến là Phát Quang Địa, cho đến địa vị thứ mười là Pháp Vân Địa.

“Thập Trụ Địa” là gì? Thập Trụ là gồm từ Phát Tâm Trụ cho đến trụ vị thứ mười là Quán Đảnh Trụ. Chữ “Địa” này là nói về Thập Địa—từ Hoan Hỷ Địa cho đến Pháp Vân Địa.

“Lại khiến cho đắc tới Phật Địa. Các vị Bồ tát đó còn có thể chứng được quả vị Phật Địa--Phật Địa chính là Diệu Giác--tự nhiên thành tựu ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp tùy hình.” Và, các ngài cũng sẽ tự nhiên thành tựu được ba mươi hai tướng tốt đẹp của bậc đại nhân, cùng tám mươi vẻ đẹp tùy hình.

“Nếu người Thanh Văn nghe Đà La Ni này thoảng qua tai một lần, rồi tu hành, biên chép Đà La Ni này, đem tâm chất trực mà như pháp an trụ ....” Giả sử có những người Nhị Thừa Thanh Văn nghe được Kinh Đại Bi Đà La Ni, dù chỉ một lần thoáng qua tai, và sau đó áp dụng tu hành, hoặc dùng bút mực để biên chép Chú Đà La Ni này. “Tâm chất trực” tức là lòng ngay thẳng chơn chất, không quanh co, cong vạy. “Trực tâm là đạo tràng”—quý vị dùng tâm chất trực mà tu hành thì sẽ đạt được quả vị mà mình hằng mong muốn.

“Trụ” cũng chính là tu hành. “Như pháp nhi trụ” tức là y theo Đại Bi Pháp mà an trụ, nương theo pháp này mà tu hành.

“Thì quả vị Tứ Sa-môn sẽ không cầu mà tự nhiên chứng đắc.” Bốn quả vị Sa môn là Sơ quả, Nhị quả, Tam quả và Tứ quả; trong đó, quả vị Tứ Sa môn chính là quả vị A La Hán. Cho dù chính bản thân những người Thanh văn đó không hề mong cầu, thì họ cũng vẫn đắc được quả vị Tứ Sa môn.

“Trong cõi Tam Thiên Đại Thiên thế giới, tất cả núi, sông, vách đá, nước trong bốn biển lớn có thể bị làm cho sôi sục trào dâng... Quý vị niệm Chú Đại Bi thì có thể khiến cho nước biển trong tứ đại hải nóng sôi lên sùng sục, núi Tu Di cùng núi Thiết Vi có thể bị làm cho dao động, lại còn bị làm cho vỡ nát thành mảy bụi, các chúng sanh ở trong đó đều khiến cho phát tâm Vô thượng Bồ đề.”

Núi Tu Di tức là núi Diệu Cao; còn núi Thiết Vi chính là dãy núi sắt bao quanh bốn phía của địa ngục.

Quý vị niệm Chú Đại Bi thì có thể khiến cho nước biển trong tứ đại hải nóng lên và sôi sùng sục, và cả núi Thiết Vi lẫn núi Tu Di cũng đều bị rúng động. Ngoài ra, đá và sắt ở trên núi Tu Di cùng núi Thiết Vi cũng có thể bị vỡ vụn thành mảy bụi; đồng thời tất cả chúng sanh ở trong núi Tu Di và núi Thiết Vi đều được khiến cho phát đại Đạo tâm Vô thượng Bồ đề.

_____________________________

 

Chú thích :

- Thập Trụ là mười trụ vị, mười địa vị an trụ của Bồ tát Đaị Thừa : Phát tâm trụ, Trì địa trụ, Tu hành trụ, Sanh quý trụ, Phương tiện cụ túc trụ, Chánh tâm trụ, Bất thối trụ, Đồng chân trụ, Pháp vương tử trụ và Quán đảnh trụ.

 

- Thập Địa là mười địa vị của Bồ tát Đại Thừa: Hoan hỷ địa, Ly cấu địa, Phát quang địa, Diễm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa và Pháp vân địa.

 

Bồ Đề Hải 78

 

Nếu các chúng sanh trong đời hiện tại có cầu nguyện điều gì, thì trong hai mươi mốt ngày nên tịnh trì trai giới, tụng Đà La Ni này, tất sẽ đạt được sở nguyện; từ ranh giới của sanh tử tới ranh giới của sanh tử, tất cả nghiệp ác đều được tiêu trừ. Trong Tam thiên đại thiên thế giới, tất cả chư Phật, Bồ-tát, Phạm, Thích, Tứ Thiên Vương, thần, tiên, long vương, thảy đều chứng tri.  

NHƯỢC CHƯ CHÚNG SANH HIỆN THẾ CẦU NGUYỆN GIẢ, Ư TAM THẤT NHẬT, TỊNH TRÌ TRAI GIỚI, TỤNG THỬ ĐÀ-LA-NI, TẤT QUẢ SỞ NGUYỆN; TÙNG SANH TỬ TẾ CHÍ SANH TỬ TẾ, NHẤT THIẾT ÁC NGHIỆP TỊNH GIAI DIỆT TẬN; TAM THIÊN ĐẠI THIÊN THẾ GIỚI NỘI, NHẤT THIẾT CHƯ PHẬT BỒ-TÁT, PHẠM THÍCH TỨ THIÊN VƯƠNG, THẦN TIÊN LONG VƯƠNG, TẤT GIAI CHỨNG TRI.  

(Quán Thế Âm Bồ-tát nói tiếp:) “Nếu các chúng sanh trong đời hiện tại có cầu nguyện điều gì…” Giả sử có những chúng sanh ở ngay trong đời này có kỳ vọng hay mong cầu việc gì và muốn cho nguyện vọng của họ được viên mãn, “thì trong hai mươi mốt ngày nên tịnh trì trai giới, tụng Đà La Ni này, tất sẽ đạt được sở nguyện.” “Tịnh” là thanh tịnh; “trì” tức là thọ trì Chú Đại Bi; “trai” là chay tịnh, không ăn các thứ có vị tanh nồng; và “giới” tức là phải nghiêm trì giới luật. Nếu các chúng sanh đó có thể giữ gìn trai giới thanh tịnh, đồng thời tụng niệm Đại Bi Đà-la-ni này trong suốt ba tuần lễ, thì chắc chắn họ sẽ được toại nguyện.

“Từ ranh giới của sanh tử tới ranh giới của sanh tử, tất cả nghiệp ác đều được tiêu trừ.” Chẳng những thế, mọi ác nghiệp mà họ đã trót tạo tác từ nhiều đời trong quá khứ, từ nơi sanh tử này đến nơi sanh tử kia, thảy đều tiêu tan, không còn nữa.

“Trong Tam thiên đại thiên thế giới, tất cả chư Phật, Bồ-tát, Phạm, Thích, Tứ Thiên Vương, thần, tiên, long vương, thảy đều chứng tri.” Tất cả đức Phật, tất cả Bồ-tát, tất cả Đại Phạm Thiên Vương, Đế Thích, Tứ Đại Thiên Vương, cùng với hết thảy thần, tiên, và long vương trong Tam thiên đại thiên thế giới đều có thể làm chứng cho các chúng sanh đó, nói rằng họ đã dứt sạch được mọi nghiệp tội của chính họ.

 

Nếu chư thiên nhân tụng trì Đà La Ni này đến tắm trong sông, hồ, biển cả, và nếu các chúng sanh ở đó được nước tắm thân của chư vị này nhuần thấm thân thể, thì tất cả ác nghiệp trọng tội của họ đều được tiêu trừ, và họ liền được chuyển sanh về cõi Tịnh Độ ở phương khác, hóa sanh từ hoa sen, không còn thọ thân thai bào hoặc thân thấp, noãn; huống là người thọ trì đọc tụng?

Nếu người trì tụng đang đi trên đường và có gió lớn thổi tới, tạt qua râu tóc, y phục của người này, thì nếu các loài chúng sanh được luồng gió đã lướt qua thân người đó thổi  chạm vào y phục, hết thảy trọng chướng ác nghiệp của họ đều được tiêu trừ, càng không phải thọ quả báo trong Tam ác đạo, mà luôn được sanh ra ở trước Phật. Nên biết quả báo phước đức của người thọ trì là bất khả tư nghì!  

NHƯỢC CHƯ THIÊN NHÂN TỤNG TRÌ THỬ ĐÀ-LA-NI GIẢ, KỲ NHÂN NHƯỢC TẠI GIANG HÀ ĐẠI HẢI TRUNG MỘC DỤC, KỲ TRUNG CHÚNG SANH ĐẮC THỬ NHÂN MỘC THÂN CHI THỦY, TRIÊM TRƯỚC KỲ THÂN, NHẤT THIẾT ÁC NGHIỆP TRỌNG TỘI TẤT GIAI TIÊU DIỆT, TỨC ĐẮC CHUYỂN SANH THA PHƯƠNG TỊNH ĐỘ, LIÊN HOA HÓA SANH, BẤT THỌ THAI THÂN, THẤP NOÃN CHI THÂN, HÀ HUỐNG THỌ TRÌ ĐỘC TỤNG GIẢ?

NHƯỢC TỤNG TRÌ GIẢ HÀNH Ư ĐẠO LỘ, ĐẠI PHONG THỜI LAI, XUY THỬ NHÂN THÂN MAO PHÁT Y PHỤC, DƯ PHONG HẠ QUÁ; CHƯ LOẠI CHÚNG SANH ĐẮC KỲ NHÂN PHIÊU THÂN PHONG XUY TRƯỚC Y GIẢ, NHẤT THIẾT TRỌNG CHƯỚNG ÁC NGHIỆP TỊNH GIAI DIỆT TẬN, CÁNH BẤT THỌ TAM ÁC ĐẠO BÁO, THƯỜNG SANH PHẬT TIỀN. ĐƯƠNG TRI THỌ TRÌ GIẢ, PHÚC ĐỨC QUẢ BÁO BẤT KHẢ TƯ NGHỊ.

 

 “Nếu chư thiên nhân tụng trì Đà La Ni này đến tắm trong sông, hồ, biển cả …” Giả sử có các thiên nhân trì niệm Chú Đại Bi đến tắm trong sông, trong hồ, hoặc trong biển cả, “và nếu các chúng sanh ở đó được nước tắm thân của chư vị này nhuần thấm thân thể …” Nếu tất cả chúng sanh đang ở trong các sông, biển, ao hồ đó được thấm ướt bởi nước tắm của chư thiên nhân này, thì tất cả ác nghiệp, trọng tội của họ đều được tiêu trừ, và họ liền được chuyển sanh về cõi Tịnh Độ ở phương khác, hóa sanh từ hoa sen. Các chúng sanh đó đều sẽ được sanh về cõi Tịnh Độ khác và được sanh ra từ hoa sen. Họ không còn thọ thân thai bào hoặc thân thấp, noãn; huống là người thọ trì đọc tụng?” Họ còn không phải thọ sanh từ trong thai bào, không phải thọ sanh từ nơi ẩm ướt, cũng không phải thọ sanh từ trứng; thế thì, huống chi là bản thân người thọ trì đọc tụng!  

“Nếu người trì tụng đang đi trên đường và có gió lớn thổi tới, tạt qua râu tóc, y phục của người này…” Giả sử có vị hành giả biết niệm Chú Đại Bi và trong những lúc đi đường đều trì niệm Chú này. Bấy giờ, có một luồng gió lớn thổi tới và thổi tạt vào thân thể của người niệm Chú Đại Bi, chạm vào râu tóc hoặc áo quần của người đó.

"Thì nếu các loài chúng sanh được luồng gió đã lướt qua thân người đó thổi chạm vào y phục…” Nếu luồng gió thổi lướt qua thân thể của người trì tụng Chú Đại Bi, rồi lại thổi tới thân thể của các chúng sanh nào, thì “hết thảy trọng chướng ác nghiệp của họ đều được tiêu trừ. Tất cả mọi trọng chướng ác nghiệp do sát sanh hại mạng như giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, phá hòa hợp Tăng, làm thân Phật chảy máu … của các chúng sanh đó đều đồng thời được dứt sạch. Họ càng không phải thọ quả báo trong Tam ác đạo, mà luôn được sanh ra ở trước Phật.” Hơn thế nữa, họ vĩnh viễn không còn bị khổ báo đọa lạc trong ba đường ác—địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh; mà sẽ thường được sanh vào thời có Phật.

 “Nên biết quả báo phước đức của người thọ trì là bất khả tư nghì!” Thế thì, nhờ ngọn gió thổi qua thân người thọ trì Chú Đại Bi mà các chúng sanh khác đều đạt được sự lợi ích, tiêu trừ được mọi trọng tội ác nghiệp. Cho nên, quý vị cần phải biết rằng nếu ngay trong đời này quý vị thọ trì Chú Đại Bi thì phước đức đạt được cùng quả báo thọ được lại càng khó thể nghĩ bàn hơn nữa, có nói thế nào cũng không có cách gì biết rõ được!

Đề tài nói chuyện hôm nay là “Ở thời đại khoa học, vì sao có người Tây phương muốn xuất gia?”

Ngày nay, khoa học phát triển một cách phi thường, càng ngày càng tiến bộ, càng ngày càng có nhiều phát hiện mới lạ; thế nhưng, sự phát hiện này đến bao giờ mới là tột đỉnh, mới là rốt ráo? Sự “rốt ráo” này có thể nói là sẽ xảy ra ở vào bất cứ thời điểm nào, song cũng có thể nói là bất tận—không có ngày cùng tận, không thể nào hoàn tất được. Hiện tại, nền khoa học của chúng ta được gọi là tiến bộ, nhưng sau 500 năm thì sự tiến bộ của khoa học ngày hôm nay lại bị xem là lạc hậu! Nền khoa học của 500 năm sau sẽ là tân kỳ; song đến 500 năm sau nữa, thì cái được mệnh danh là “khoa học tân kỳ” của 500 năm về trước lại trở thành lạc hậu, còn khoa học của 500 năm sau lại là mới mẻ. Hiện giờ người ta cho rằng những gì của quá khứ là xưa cũ; song sau 500 năm nữa, trong tương lai, tất cả những thứ tân kỳ của hiện tại cũng đều sẽ bị xem là xa xưa, lỗi thời. Cho nên, khoa học và triết học không có ngày cùng tận; có thể nói là “càng chạy càng xa,” chẳng có kết thúc.

Đặc biệt là khoa học và triết học ngày nay tuy có phát triển, nhưng những lợi ích mà chúng mang lại cho con người thì ít hơn so với những điều bất lợi! Đó chính là tình trạng “cái hại nhiều hơn cái lợi” —đối với nhân loại thì sự giúp ích không nhiều hơn sự sát hại. Vì sao? Trước kia, khi khoa học chưa phát triển đến thế này thì người ta không bị chết nhiều như vậy; song le, hiện tại khoa học phát triển càng nhanh chóng thì trong tương lai, nhân loại sẽ bị chết càng nhiều hơn, thậm chí có thể đi đến chỗ tận diệt! Nếu loài người bị hủy diệt thì khoa học, triết học còn ích dụng gì cho nhân loại nữa chứ? Chắc chắn là không còn hữu dụng nữa!

Hiện tại tuy rằng khoa học và triết học phát triển như thế, nhưng đối với những tai họa trên thế giới, thì vẫn chưa thể tiêu diệt được. Thí dụ như việc nảy sanh nhiều căn bệnh quái lạ mà với sự phát triển của khoa học, con người vẫn chưa có cách nào chữa trị hoặc trừ khử được—đó là một điểm. Rồi lại còn chiến tranh nữa—khoa học phát triển đến cực điểm thì chiến tranh sẽ càng khốc liệt bởi các vũ khí giết người mỗi ngày một tinh vi, kỳ diệu hơn; sự tinh vi kỳ diệu đó chẳng phải sẽ đưa nhân loại vào chỗ chết sao? Nước này gây chiến với nước khác, nhà nọ tranh chấp với nhà kia, người này gây gổ với người nọ—tất cả đều hỗ tương tàn sát lẫn nhau; cứ như thế thì biết đến bao giờ mới chấm dứt được? Anh đề phòng tôi, tôi đề phòng anh; anh muốn hủy diệt tôi, tôi cũng muốn hủy diệt anh—tất cả đều hỗ tương hủy diệt lẫn nhau. Và rốt cuộc sẽ có một ngày tất cả đều “cùng về chỗ chết,” và lúc đó thì mọi người đều sẽ không còn việc gì để làm nữa!

Không phải chỉ có nạn chiến tranh là khó ngăn chận, khó dập tắt thôi đâu, mà còn có nào là nạn lũ lụt (không biết được là sẽ xảy ra lúc nào, ở nơi đâu), nạn hỏa hoạn (suốt ngày toàn nghe tiếng xe cứu hỏa hụ còi inh ỏi, ồn ào hơn tất cả), nạn gió bão (hễ cuồng phong thổi tới thì gây chết chóc cho biết bao nhiêu người)… Chỉ mấy hôm trước đây, ở Đài Loan có nạn gió bão xảy ra gây thiệt hại cho cả mấy trăm người. Vào lúc khoa học tiến bộ đến dường này, vẫn chưa có cách nào khiến cho những tai ương như thế biến mất, không còn xảy ra. Trông thấy tình trạng này, nếu muốn tiêu diệt tai ương, chúng ta cần phải nghiên cứu đạo lý của nhân sinh, cần phải thấu hiểu các chân lý của nhân sinh, rồi sau đó mới có thể biết được căn nguyên, mầm mống của các tai ương. Thế thì, muốn tránh tai ương, điều thiết yếu là mọi người đều phải “sửa sai, hướng thiện”! Vì sao những tai ương này xảy ra? Đó đều là do cộng nghiệp của mọi người cảm vời ra; nghiệp tụ tập lại với nhau nên mới có loại tai họa này xảy ra. Rồi lại còn nạn động đất nữa—đây là một thứ tai họa rất đáng sợ, nó khiến mọi người đều nơm nớp lo âu. Rất nhiều người ở thành phố San Francisco lo sợ sẽ có nạn động đất xảy ra. Thế nhưng, chẳng có cách gì tiêu diệt được các tai ương này bởi vì đó là do nghiệp chướng của chúng sanh chiêu cảm mà ra!

Nói đến “nghiệp” thì chỉ có Phật giáo mới có thể giải thích một cách tường tận về nguồn gốc, đạo lý của tướng nghiệp mà thôi. Do đó, chúng ta cần phải phát tâm xuất gia, nghiên cứu Phật Pháp; phải hiểu rõ Phật Pháp thì mới có thể chẩn cứu toàn thể nhân loại, thật sự cứu vớt nhân loại ra khỏi cảnh nước sôi lửa bỏng được. Chúng ta phát tâm xuất gia là để nghiên cứu đạo lý của Phật giáo, dùng tinh thần từ bi vĩ đại của Phật giáo mà dấn thân cứu độ tất cả chúng sanh, khiến cho mọi tai ương trên thế giới đều vô hình trung bị tiêu diệt. Cho nên, bây giờ chúng ta cần phải phát tâm buông bỏ các pháp của thế gian để nghiên cứu pháp xuất thế gian.

Trong lúc cả vũ trụ người ta đang hỗ tương cạnh tranh, đua nhau sáng chế các lợi khí giết người để sát phạt nhau một cách điên cuồng, thì kỳ lạ thay, có những người lại muốn xuất gia, muốn học tập pháp môn không giết người! Có thể nói rằng sự kiện này sẽ làm cho toàn thể nhân loại trên khắp vũ trụ đều phải vô cùng kinh ngạc! Tôi hy vọng trong lúc nhân loại còn đang trong cơn kinh ngạc, thì quý vị đều có thể tỉnh ngộ, mọi người đều biết hồi quang phản chiếu, học tập pháp môn không giết người này.

Thế giới này là do tâm con người tạo thành. Con người có tâm hiếu sát, thích chém giết, thì cả thế giới này sẽ biến thành một bãi chiến trường—một thế giới của chiến tranh. Con người có lòng hiếu sanh, độ lượng, thì thế giới này sẽ biến thành một thế giới hòa bình, hạnh phúc. Thế nên, hiện nay có được những người Tây phương có thể giác ngộ trước, phát tâm học tập về tôn giáo, về pháp môn không hiếu sát, đối với hiện tại mà nói thì đây là một bước khởi đầu. Tôi hy vọng sau này, tất cả người Tây phương cũng như người Đông phương, đều sẽ sửa đổi tâm hiếu chiến thành tâm từ bi, từ bỏ tâm sân hận để đổi lấy tâm từ bi hỷ xả, và có thể cùng nhau nghiên cứu đạo Phật. Đây đối với người Tây phương chỉ là mở đầu của sự giác ngộ; mong rằng trong tương lai chúng ta có thể chuyển hóa các vị tổng thống của phương Tây trở thành những vị tổng thống ủng hộ Phật giáo!

Bây giờ tôi sẽ công bố tên của những người Tây phương xuất gia (tại Chùa Kim Sơn Thánh Tự).

Người thứ nhất tên là Quả Tiền, tự là Hằng Khiêm. Trước đây, khi chưa xuất gia, chú ấy cho rằng thế giới này không có gì đáng trân trọng, và đã sống như một khách nhàn du, chu du đây đó, không có gia đình để trở về. Thế nhưng, bây giờ gặp được Phật Pháp rồi, chú bèn lấy chốn xuất gia làm chỗ nương tựa để quay về.

Người thứ hai tên là Quả Ninh, tự là Hằng Tịnh. Quả Ninh vốn cũng tự cho rằng đời người thật vô vị, chẳng có ý nghĩa gì cả. Về sau, khi nhân duyên đến, chú ấy đã gặp được Phật Pháp và biết được rằng chân lý chân chánh vốn nằm trong giáo lý đạo Phật, nên bèn xin xuất gia.

Người thứ ba tên là Quả Hiện, tự là Hằng Thọ. Quả Hiện là một thanh niên trẻ tuổi cũng rất khác người. Chú ấy có ý muốn nghiên cứu về chân lý của nhân sinh, muốn tìm hiểu nơi quay về rốt ráo, cùng vấn đề sanh tử, cho nên chú đã xuất gia.

Người thứ tư tên là Quả Dật, tự là Hằng Ẩn. Cô thanh nữ này trước kia cũng có ý tưởng muốn chân chánh thấu hiểu về vấn đề nhân sinh, nay gặp được Phật Pháp mới biết rằng đây chính là những gì đáng cho con người nghiên cứu tìm hiểu, cho nên cô đã xuất gia tu hành.

Người thứ năm tên là Quả Tu, tự là Hằng Trì. Quả Tu vốn đã nhận thức rất rõ ràng về thế giới này, cô ta đã có được cái nhìn thấu suốt và đã có thể buông bỏ hết mọi thứ, một lòng tha thiết muốn tu Đạo. Cô ta có nói mấy câu như sau:

Quả tất năng đắc,

Tu chư phúc đức,

Hằng niệm Định, Huệ,

Trì Giới thành Phật.

 

(Quả sẽ đắc được,

Tu mọi phước đức,

Hằng nhớ Định, Huệ,

Trì Giới thành Phật.)

 

Bốn câu này là do chính Quả Tu sáng tác, rất có ý nghĩa.

Trên đây chỉ là sơ lược về nhân duyên xuất gia của năm Phật tử người Tây phương; nếu muốn kể chi tiết e rằng phải cần nhiều thời gian mới nói hết được!

 

Bồ Đề Hải 79

 

“TỤNG TRÌ THỬ ĐÀ LA NI GIẢ, KHẨU TRUNG SỞ XUẤT NGÔN ÂM, NHƯỢC THIỆN NHƯỢC ÁC, NHẤT THIẾT THIÊN MA, NGOẠI ĐẠO, THIÊN LONG QUỶ THẦN VĂN GIẢ, GIAI THỊ THANH TỊNH PHÁP ÂM, GIAI Ư KỲ NHÂN KHỞI CUNG KÍNH TÂM, TÔN TRỌNG NHƯ PHẬT.”

“Người trì tụng Đà La Ni này, khi miệng thốt ra lời nói gì, hoặc thiện hoặc ác, thì tất cả thiên ma, ngoại đạo, thiên long, quỷ, thần, đều nghe thành tiếng Pháp âm thanh tịnh, đối với người đó khởi lòng cung kính, tôn trọng như Phật.”

 

[Quán Thế Âm Bồ-tát lại bảo Đại Phạm Thiên Vương:] “Người trì tụng Đà La Ni này…” Nếu quý vị chỉ nhớ Chú Đại Bi, học Chú Đại Bi một cách đơn thuần mà thôi chứ không tụng cũng không trì thì chẳng có tác dụng gì cả! Quý vị cần phải trì tụng! “Tụng” tức là lìa khỏi sách vở, không nhìn vào sách vở mà đọc tụng; còn “trì” nghĩa là kiên trì, đều đặn, không gián đoạn. “Trì tụng Đà La Ni” tức là mỗi ngày đều tụng niệm—chẳng phải là hôm nay tụng niệm, rồi ngày mai thì không tụng niệm, đến ngày mốt lại tụng niệm tiếp... Quý vị hôm nay tụng 108 biến, thì ngày mai cũng phải tụng 108 biến, ngày mốt cũng phải tụng 108 biến—ngày ngày phải liên tục, đều đặn, tinh tấn tụng niệm, không hề ngưng nghỉ—như thế mới gọi là “trì tụng”; nếu gián đoạn thì chẳng phải nghĩa “trì tụng” vậy!  

Có người nói rằng: “Tôi thuộc rồi, tôi thuộc nằm lòng Chú Đại Bi rồi, cần gì phải tụng niệm nữa!” Song le, như thế thì không có công dụng gì cả! Quý vị cần phải “triêu ư tư, tịch ư tư,” nghĩa là buổi sáng thì tu hành như thế, buổi tối cũng tu hành như thế, không hề gián đoạn, chẳng có mảy may lười biếng, trễ nải—đó mới đích thực là “tụng trì Đà La Ni” vậy! Đà La Ni này chính là “tổng trì Đại Bi Chú.” “Tổng trì” có nghĩa là “tổng nhất thiết pháp, trì vô lượng nghĩa”; và cũng có nghĩa là tổng trì ba nghiệp thân, khẩu, ý, không sai phạm. Quý vị nếu thân không gây tạo sát, đạo, dâm; tâm không sanh khởi tham, sân, si; miệng không nói lời hung ác, dối trá, thêu dệt, đâm thọc, như vậy gọi là “tam nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh,” và mới đúng là một hành giả chân chánh trì tụng Đà La Ni. Nếu quý vị thường xuyên tụng niệm Chú Đại Bi, “khi miệng thốt ra lời nói chi, hoặc thiện hoặc ác…” Người trì niệm Chú Đại Bi thì vốn đã không nên có những lời lẽ độc ác, bất thiện rồi, song cũng có đôi khi do vô tình mà trót phạm phải tội ác khẩu, “thì tất cả thiên ma, ngoại đạo, thiên long, quỷ, thần đều nghe thành tiếng Pháp âm thanh tịnh.” Nói như thế không có nghĩa là: “A! Tôi cứ tha hồ mắng chửi người khác, bởi những lời ác độc, nguyền rủa, cũng là  ‘thanh tịnh Pháp âm’ kia mà!” Không phải như thế! Nếu vô hình trung quý vị ngẫu nhiên gây tạo nghiệp ác khẩu, thì ngay lúc bấy giờ, đối với những người khác, đương nhiên đó vẫn là lời nói hiểm ác; nếu như người nào nghe mà không biết đó là lời nói hiểm ác, thì người ấy đích thị là một kẻ chẳng biết phân biệt thiện ác vậy!  

Ở đây là nói đến các thiên nhân, thiên ma, hàng ngoại đạo, chúng rồng ở cõi trời, hoặc các quỷ thần, mặc dù họ có thể có Ngũ Thông, nhưng thần lực bất khả tư nghì của Chú Đại Bi sẽ khiến cho nhĩ căn của họ bị gián đoạn; cho nên âm thanh mà họ nghe thấy toàn là “Pháp âm thanh tịnh,” đối với họ đều là lời thuyết Pháp.  

“Đối với người đó khởi lòng cung kính, tôn trọng như Phật.” Ngày ngày họ đối với người tụng Chú này đều nhất mực cung kính và trân trọng lễ bái. Họ tôn trọng người tụng Chú Đại Bi này như tôn trọng mười phương chư Phật đời quá khứ vậy!  

 

“TỤNG TRÌ THỬ ĐÀ LA NI GIẢ, ĐƯƠNG TRI KỲ NHÂN TỨC THỊ PHẬT THÂN TẠNG, CỬU THẬP CỬU ỨC HẰNG HÀ SA CHƯ PHẬT SỞ ÁI TÍCH CỐ.”  

“Người nào trì tụng Đà La Ni này, nên biết người ấy chính là tạng Phật thân, vì chín mươi chín ức hằng hà sa chư Phật đều yêu quý.”  

“Người nào trì tụng Đà La Ni này, nên biết người ấy chính là tạng Phật thân.” Mọi người nên biết rằng người này, kẻ có thể trì tụng Chú Đại Bi, chính là “Phật thân tạng,” có nghĩa là nhất định sẽ thị hiện thân Phật. Vì sao vậy? Đó là nhờ sức gia trì của Tam-muội. Tuy rằng người trì tụng này chưa thành Phật, song người ấy cũng có thể khiến cho chân tướng của mình được sáng chói như thân của Phật vậy—đây chính là sức mạnh do sự gia trì Chú Đại Bi, là sự trợ lực từ công đức tụng trì Chú Đại Bi! Thế nhưng, trì tụng Chú Đại Bi thì quý vị cần phải theo quy cũ, khuôn phép; không được nói rằng: “Tôi là Phật thân tạng,” rồi có thể tùy tiện, buông lung.  

Vì sao người ấy là “Phật thân tạng”? ”Vì chín mươi chín ức hằng hà sa chư Phật đều yêu quý.” Chín mươi chín ức hằng hà sa chư Phật đời quá khứ đều đã phát nguyện rằng: “Ta sẽ gia hộ cho người trì tụng thần chú Đại Bi Đà La Ni này như hộ trì mười phương chư Phật vậy.”  

“ĐƯƠNG TRI KỲ NHÂN TỨC THỊ QUANG MINH TẠNG, NHẤT THIẾT NHƯ LAI QUANG MINH CHIẾU CỐ.”  

“Nên biết người ấy chính là tạng Quang Minh, vì ánh sáng của tất cả Như Lai đều chiếu đến nơi mình.”  

“Nên biết người ấy chính là tạng Quang Minh.” Quý vị tụng Thần Chú Đại Bi thì sẽ hiển xuất vô số ánh sáng, vì sao? “Vì ánh sáng của tất cả Như Lai đều chiếu đến nơi mình.” Bởi vì tất cả đức Phật trong mười phương đều phóng hào quang chiếu dọi đến thân của quý vị.  

“ĐƯƠNG TRI KỲ NHÂN THỊ TỪ BI TẠNG, HẰNG DĨ ĐÀ LA NI CỨU CHÚNG SANH CỐ.”  

“Nên biết người ấy chính là tạng Từ Bi, vì thường dùng Đà La Ni cứu độ chúng sanh.”  

“Nên biết người ấy chính là tạng Từ Bi.” Người có thể tụng trì Chú Đại Bi là người có lòng đại từ đại bi, vì sao? “Vì thường dùng Đà La Ni cứu độ chúng sanh.” Bởi vì người đó thường dùng Đà La Ni để cứu hộ hết thảy chúng sanh, khiến tất cả chúng sanh đều được ly khổ đắc lạc, tai qua nạn khỏi, tật bệnh tiêu trừ, tội diệt phước sanh.

“ĐƯƠNG TRI KỲ NHÂN THỊ DIỆU PHÁP TẠNG, PHỔ NHIẾP NHẤT THIẾT CHƯ ĐÀ LA NI MÔN CỐ.”  

“Nên biết người ấy chính là tạng Diệu Pháp, vì thâu nhiếp tất cả các môn Đà La Ni.”  

“Nên biết người ấy chính là tạng Diệu Pháp.” Quý vị phải biết rằng người trì tụng Chú Đại Bi chính là “nơi” tụ hội các diệu pháp; vì sao? “Vì thâu nhiếp tất cả các môn Đà La Ni.”   

          Thần chú Đại Bi Đà La Ni có công năng thâu nhiếp tất cả các môn Đà La Ni. Sự thâu nhiếp này cũng giống như nam châm hút sắt vậy, có thể nhiếp trì, thu hút tất cả các môn Đà La Ni về một chỗ. Cho nên, quý vị trì tụng Chú Đại Bi tức là đem tất cả diệu pháp thâu nhiếp về một chỗ với nhau vậy.

“ĐƯƠNG TRI KỲ NHÂN THỊ THIỀN ĐỊNH TẠNG, BÁCH THIÊN TAM MUỘI GIAI HIỆN TIỀN CỐ.”  

“Nên biết người ấy chính là tạng Thiền Định, vì trăm, ngàn Tam-muội thảy đều hiện tiền.”  

             “Nên biết người ấy chính là tạng Thiền Định.” Người có thể trì tụng thần chú Đại Bi chính là tạng Thiền Định. Vì sao người ấy được gọi là Thiền Định tạng? “Vì trăm, ngàn Tam-muội thảy đều hiện tiền, cả trăm, ngàn Tam-muội đều có thể thường xuyên hiện ra.”

         “Trăm, ngàn Tam-muội thảy đều hiện tiền” không có nghĩa là cả trăm, ngàn Tam-muội đồng thời hiện ra, cũng không phải là không đồng thời hiện ra. Đó chính là một thứ cảnh giới vi diệu bất khả tư nghị, không diễn tả bằng lời nói được! “Tam-muội” chính là định lực; cả trăm, ngàn môn Tam-muội khác nhau đều có thể xuất hiện cùng một lúc.  

         Thế thì, nói “không đồng thời hiện ra” là thế nào? Bởi vì nếu quý vị hiển xuất một Tam-muội, nếu chỉ thành tựu được một loại Tam-muội mà thôi, thì đây không phải là “đồng thời hiện ra.” Tuy nhiên, có đôi khi, quý vị hiển xuất một loại Tam-muội mà có thể bao gồm được tất cả các Tam-muội khác, thì đó gọi là “đồng thời hiện ra” vậy.  

 

“ĐƯƠNG TRI KỲ NHÂN THỊ HƯ KHÔNG TẠNG, THƯỜNG DĨ KHÔNG HUỆ QUÁN CHÚNG SANH CỐ.”  

“Nên biết người ấy chính là tạng Hư Không, vì thường dùng Không Huệ quán sát chúng sanh.”  

             “Nên biết người ấy chính là tạng Hư Không.” Quý vị phải biết rằng người trì tụng Chú Đại Bi này cũng giống như tạng Hư Không vậy, “vì thường dùng Không Huệ quán sát chúng sanh.” Người này luôn luôn dùng trí huệ rộng lớn như hư không để quán sát nhân duyên của chúng sanh.  

 

“ĐƯƠNG TRI KỲ NHÂN THỊ VÔ ÚY TẠNG, LONG THIÊN THIỆN THẦN THƯỜNG HỘ TRÌ CỐ. 

“Nên biết người ấy chính là tạng Vô Úy, vì Thiên, Long, thiện thần thường theo hộ trì.”  

             “Nên biết người ấy chính là tạng Vô Úy.” Quý vị nên biết rằng người này--người trì niệm Chú Đại Bi—không còn lo âu sợ hãi, “vì Thiên, Long, thiện thần thường theo hộ trì.” Thiên Long Bát Bộ và tất cả thiện thần luôn luôn gia hộ cho người này.  

“ĐƯƠNG TRI KỲ NHÂN THỊ DIỆU NGỮ TẠNG, KHẨU TRUNG ĐÀ LA NI ÂM VÔ ĐOẠN TUYỆT CỐ.”  

“Nên biết người ấy chính là tạng Diệu Ngữ, vì tiếng Đà La Ni trong miệng tuôn ra không dứt.”  

             “Nên biết người ấy chính là tạng Diệu Ngữ.” Quý vị nên biết người luôn luôn trì tụng Chú Đại Bi, ngày đêm không gián đoạn, chính là Diệu Ngữ Tạng. Những lời người này trì tụng đều là thứ ngôn ngữ bất khả tư nghì, “vì tiếng Đà La Ni trong miệng tuôn ra không dứt.” Người này lúc nào cũng niệm Chú Đại Bi Đà La Ni. “Không dứt” tức là luôn luôn, thường xuyên trì niệm.  

             Trong quá khứ, tôi đã từng gặp rất nhiều vị Tỳ Kheo như thế—ngày đêm tinh tấn trì Chú Đại Bi, không nghĩ ngợi chuyện gì khác, họ chuyên cần trì niệm đến nỗi tất cả mọi vọng tưởng đều không còn.

 

Chú thích:  

Tam-muội Môn: Là sự khác biệt giữa nhiều thứ Tam-muội nên gọi là “môn”. Tam-muội mà Bồ-tát chứng được là nhập vào cửa Phật sẵn có vô lượng Tam-muội nên gọi là “môn”.

 

Bồ Đề Hải 80

 

“ĐƯƠNG TRI KỲ NHÂN THỊ THƯỜNG TRỤ TẠNG, TAM TAI ÁC KIẾP BẤT NĂNG HOẠI CỐ.”

“Nên biết người ấy chính là tạng Thường Trụ, vì tam tai ác kiếp không thể hủy hoại được.”

 

GIẢNG:

“Nên biết người ấy chính là tạng Thường Trụ.” Quý vị nên biết rằng người thường xuyên trì tụng Chú Đại Bi chính là Thường Trụ Tạng, bởi “vì tam tai ác kiếp không thể hủy hoại được.”

 

“Tam tai” là gì? Chẳng phải hôm qua tôi đã giảng rồi sao? Đó chính là ba thứ tai ương: thủy tai (nạn nước), hỏa tai (nạn lửa) và phong tai (nạn gió):

 

“Thủy yểm Sơ thiền, hỏa thiêu Nhị thiền, phong quát Tam thiền.”

(Nước ngập Sơ thiền, lửa đốt Nhị thiền, gió quét Tam thiền.)

 

Hiện tại tuy nói rằng trên thế giới cũng có nạn lũ lụt, hỏa hoạn và gió bão xảy ra, song đó chỉ là những trận nhỏ so với đại tam tai. Lúc đại tam tai phát khởi, đại thủy tai sẽ tràn ngập tới cõi trời Sơ thiền, đại hỏa tai sẽ thiêu đốt đến cõi trời Nhị thiền, và đại phong tai sẽ càn quét tận cõi trời Tam thiền. Bấy giờ, đừng nói gì cõi nhân gian, mà ngay cả cõi trời cũng đều không thoát khỏi ba thứ tai ương này.  

“Ác kiếp” là thời kỳ mà nạn đao binh, lũ lụt, hỏa hoạn, dịch bệnh hoành hành. Tuy nhiên, những người thường xuyên trì niệm Chú Đại Bi thì không bị các tai kiếp này xảy đến cho thân mình.  

Trì niệm Chú Lăng Nghiêm cố nhiên là được bất khả tư nghì công đức và bất khả tư nghì phước báo; trì niệm Chú Đại Bi thì cũng vậy—cũng có được năng lực “chuyển đổi càn khôn, dời non lấp bể.” Nếu quý vị tu pháp Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn thành công thì quý vị có thể chuyển dời được cả núi Tu Di, có thể dời thế giới này đến chỗ của thế giới khác và dời thế giới khác đến chỗ của thế giới này, mà những người cư trú trong những thế giới đó vẫn không biết rằng họ đã bị dời đi! Quý vị xem, như vậy có kỳ diệu không chứ?  

 Từ phương Bắc dời qua phương Nam, xê dịch một cái là dời đi cả mấy vạn dặm mà không ai hay biết gì cả, đây mới thực sự là một cuộc “đại thiên di”! Nếu quý vị tu tập thành công, quý vị sẽ có được năng lực này; bấy giờ, nếu cảm thấy nơi này không được vừa ý thì có thể dọn sang nơi khác, dời thế giới khác về nơi này, dời thế giới này sang thế giới khác—mà không cần phải dùng đến hỏa tiễn. Quý vị xem, như vậy có vi diệu không chứ? Thế nhưng, quý vị phải tu thành thì mới được, nếu tu chưa thành thì không thể làm nổi những việc như thế!  

“Không thể hủy hoại được.” Bởi tất cả những tai kiếp này đều không thể hủy hoại được những người trì tụng Chú Đại Bi, cho nên họ được gọi là “tạng Thường Trụ” vậy.

 

“ĐƯƠNG TRI KỲ NHÂN THỊ GIẢI THOÁT TẠNG, THIÊN MA NGOẠI ĐẠO BẤT NĂNG KÊ LƯU CỐ.”

“Nên biết người ấy chính là tạng Giải Thoát, vì thiên ma ngoại đạo không thể cản trở được.”

 

GIẢNG:

“Nên biết người ấy chính là tạng Giải Thoát.” Quý vị phải biết rằng những người chuyên tâm trì niệm Chú Đại Bi sẽ có được tạng Giải Thoát, “vì thiên ma ngoại đạo không thể cản trở được.” Họ được tự do, thiên ma ngoại đạo cũng không thể quấy nhiễu, ngăn cản hoặc cai quản họ được.  

Nếu quý vị có đôi chút bản lãnh, thì có khi thiên ma ngoại đạo cũng muốn bắt quý vị về làm quyến thuộc của chúng; tuy nhiên, nếu quý vị có thể trì niệm Chú Đại Bi thì chúng sẽ không làm gì quý vị được cả, chúng không thể nào tóm bắt quý vị được.

 

“ĐƯƠNG TRI KỲ NHÂN THỊ DƯỢC VƯƠNG TẠNG, THƯỜNG DĨ ĐÀ-LA-NI LIỆU CHÚNG SANH BỆNH CỐ.”

“Nên biết người ấy chính là tạng Dược Vương, vì thường dùng Đà La Ni trị bệnh cho chúng sanh.”

 

GIẢNG:

Chú Đại Bi có thể chữa trị mọi bệnh tật trên thế gian. Thế gian có tám vạn bốn ngàn thứ bệnh tật thì Chú Đại Bi đều có thể trị khỏi tất cả; tuy nhiên, quý vị cần phải thành tâm trì tụng thì mới có được sức mạnh và sự công hiệu này. Nếu quý vị không thành tâm trì tụng, lúc bình thường chẳng tụng chẳng trì, đợi đến lúc người có bệnh tìm đến thì quý vị bảo rằng: “À, để tôi niệm một biến Chú Đại Bi chữa bệnh cho người này!” Niệm một biến ư? Bấy giờ, cho dù quý vị có niệm tới mười biến thì cũng chẳng có công hiệu gì cả! Cần phải lúc bình thường vẫn thuờng xuyên tu tập Đại Bi Pháp, vẫn trì tụng Đại Bi Chú, thì đến lúc cần dùng mới linh nghiệm, mới có công hiệu.  

Nếu lúc bình thường quý vị không tu không tụng, biện minh rằng: “Khi nào cần dùng thì khi đó hãy niệm. Nhớ khi nào thì niệm khi đó!” Làm như thế thì cũng có thể có công hiệu đấy, nhưng không được lớn lắm. Cũng như lúc bình thường thì quý vị không chịu đào giếng, đợi đến lúc khát khô cả cổ, thèm uống miếng nước, mới than thở: “Ở chỗ tôi không có nước uống, tôi cần phải đào một cái giếng mới được!” Thế nhưng, quý vị muốn đào giếng thì cũng phải đợi đến mấy ngày sau mới có nước để dùng. Quý vị lại nói: “Tôi lập tức đào giếng thì lập tức có nước uống ngay!” Không thể nào có chuyện đó! Và, việc trì tụng Chú Đại Bi cũng tương tự như thế.  

Vậy, quý vị “nên biết người ấy chính là tạng Dược Vương, vì thường dùng Đà La Ni trị bệnh cho chúng sanh.” Nếu lúc bình thường quý vị chuyên cần trì tụng Chú Đại Bi, thì đến khi cần dùng tới, quý vị sẽ giống như tạng Dược Vương vậy, hết thảy các thứ thuốc đều nằm trong Chú Đại Bi, cho nên quý vị niệm Chú Đại Bi thì mọi bệnh tật ốm đau đều sẽ lìa khỏi thân mình!

 

“ĐƯƠNG TRI KỲ NHÂN THỊ THẦN THÔNG TẠNG, DU CHƯ PHẬT QUỐC ĐẮC TỰ TẠI CỐ. KỲ NHÂN CÔNG ĐỨC, TÁN BẤT KHẢ TẬN.”

“Nên biết người ấy chính là tạng Thần Thông, vì được tự tại dạo khắp các cõi Phật. Công đức của người ấy tán thán không cùng tận!”

 

GIẢNG:

“Nên biết người ấy chính là tạng Thần Thông.” Quý vị nên biết rằng người niệm Chú Đại Bi này có thần thông, “vì được tự tại dạo khắp các cõi Phật.” Người đó, trong lúc Thiền định, dù đang ngồi hay nằm, đều có thể đến các quốc độ của chư Phật. Muốn đến cõi nước của đức Phật nào, người ấy chỉ cần nghĩ tới cõi nước đó, chẳng hạn như: “Tôi muốn đi xem cho biết thế giới Cực Lạc trông như thế nào!”; thì liền nhập Thiền định và đến ngay thế giới Cực Lạc! Vì sao lại được như thế? Đó chính là do oai lực của Chú Đại Bi đã trợ giúp, khiến cho người ấy có thể du hành đến các cõi nước của chư Phật.  

“Dạo khắp” ở đây ám chỉ sự du hành của tự tánh, chứ không phải mang theo “cái túi da hôi thối” này mà dạo chơi ở thế giới Cực Lạc đâu! Nếu cái thân này cùng theo đến thế giới Cực Lạc thì nó không thể trở về lại thế giới này được nữa, mà dù cho có trở về thì cũng không dễ gì mà có được sự thong dong tự tại!  

“Công đức của người ấy tán thán không cùng tận.” Dù có khen ngợi đến thế nào đi nữa thì cũng không thể kể cho hết công đức của người trì tụng Chú Đại Bi này được!

 

Bồ Đề Hải 81

 

KINH VĂN:

“THIỆN NAM TỬ! NHƯỢC PHỤC HỮU NHÂN, YẾM THẾ GIAN KHỔ, CẦU TRƯỜNG SANH LẠC GIẢ, TẠI NHÀN TỊNH XỨ, THANH TỊNH KẾT GIỚI, CHÚ Y TRƯỚC, NHƯỢC THỦY, NHƯỢC THỰC, NHƯỢC HƯƠNG, NHƯỢC DƯỢC, GIAI CHÚ NHẤT BÁCH BÁT BIẾN PHỤC, TẤT ĐẮC TRƯỜNG MẠNG.”

 

“Thiện nam tử! Nếu lại có người nhàm chán sự khổ ở thế gian, cầu được trường sanh an lạc, thì nên ở nơi sạch sẽ vắng lặng mà thanh tịnh kết giới; rồi trì niệm Chú vào y phục mà mặc; các thứ như nước uống, thức ăn, hương, thuốc men, thảy đều chú nguyện 108 biến rồi mới phục dụng, tất sẽ được sống lâu.”

 

LƯỢC GIẢNG:

Đoạn kinh văn này nói về những người muốn được “trường sanh bất lão,” ao ước mình sẽ được sống hoài sống mãi, vĩnh viễn không bao giờ phải già, phải chết. Có một phái ngoại đạo nói rằng nếu sanh lên cõi trời thì sẽ được sống mãi mãi; tuy nhiên, cần phải vất bỏ cái “túi da hôi thối” này! Theo giáo lý nhà Phật, nếu được sanh về thế giới Cực Lạc, hóa sanh từ hoa sen, thì sẽ không còn bị đọa lạc và cũng không còn cần tới cái “túi da hôi thối,” cái bộ xương giả tạm này nữa. Thế nhưng, nếu quý vị muốn khỏi xả bỏ cái “túi da hôi thối” này mà vẫn được “trường sanh bất tử,” thì cũng có thể được đấy! Quán Âm Bồ-tát đã có cách để giúp quý vị thực hiện được điều này. Giúp bằng cách nào đây?

 

“Thiện nam tử!” Ở đây, “thiện nam tử” là bao gồm luôn cả người thiện nữ. Vậy, Quán Âm Bồ-tát giúp như thế nào? “Này các thiện nam tử và các thiện nữ nhân, những người thọ trì Ngũ Giới và hành trì Thập Thiện! Nếu lại có người nhàm chán sự khổ ở thế gian, cầu được trường sanh an lạc.” Giả sử có người chán ghét nỗi khổ não về sanh tử của thế gian này—sanh ra rồi chết, chết rồi lại sanh ra—cho nên muốn trong đời này được “bất tử,” được không phải chết và cũng không phải tái sanh nữa, vĩnh viễn được hưởng nỗi vui sướng của sự trường sanh. Điều này có thể làm được đấy; thế thì làm như thế nào?

Trước hết, người đó phải “ở nơi sạch sẽ vắng lặng mà thanh tịnh kết giới.” “Nhàn” tức là “du nhàn,” có nghĩa là an nhàn, thanh thản. “Tịnh” là thanh tịnh, trong lành, sạch sẽ. “Nhàn tịnh xứ” tức là một nơi vô cùng yên tĩnh, rất ít người lui tới. “Thanh tịnh kết giới,” tức là người đó phải ở tại một nơi sạch sẽ và vắng lặng mà dùng Chú Đại Bi để kết giới. Phương pháp kết giới là như thế nào?

 

“Chú nguyện vào y phục.” Người đó cần đem áo quần của mình ra và niệm vào đó 108 biến Chú Đại Bi. Và “các thứ như nước uống, thức ăn, hương, thuốc men, thảy đều chú nguyện 108 biến rồi mới phục dụng.” Trong nước uống của mình, nên niệm 108 biến Chú Đại Bi vào đó rồi hãy uống. Thức ăn cũng vậy, cũng niệm 108 biến Chú Đại Bi rồi mới ăn. Ngay cả nhang để thắp thì cũng niệm 108 biến Chú Đại Bi rồi mới thắp; hoặc là thuốc men dược phẩm thì cũng nên niệm 108 biến Chú Đại Bi rồi hãy uống. Tất cả đều cần phải niệm Chú Đại Bi 108 biến rồi mới được dùng. Chữ “phục dụng” ở đây mang rất nhiều nghĩa, có thể hiểu là mặc (quần áo), uống (nước, thuốc men), ăn (thức ăn), thắp (hương, nhang).

 

Có người thắc mắc: “Có thể gom tất cả các thứ vật chất này về một chỗ, rồi mới niệm 108 biến Chú được không? Hay là phải niệm tách biệt 108 biến cho từng thứ một?” Chỉ có những kẻ chuyên môn lười biếng mới nghĩ ra được cái “diệu pháp” như thế: “Nếu gom lại về một chỗ thì tôi chỉ việc niệm 108 biến Chú là xong ngay, tất cả cũng đều được chú nguyện thôi!”

 

Thế cũng được! Cũng có thể hợp chung lại niệm, nhưng có điều, mức độ linh nghiệm sẽ giảm đi ít nhiều do bị phân tán bớt. Nếu quý vị có thể niệm riêng rẽ 108 biến Chú cho mỗi thứ, thì mặc dầu phải cần nhiều thời gian hơn một chút, song công hiệu lại lớn hơn rất nhiều. Còn nếu quý vị chấp nhận công hiệu nhỏ, thì cứ việc tiết kiệm đôi chút thời giờ vậy! Thế nhưng, niệm Chú xong rồi thì quý vị rảnh rỗi để làm gì? Có công việc gì cần phải làm chăng? Nếu quý vị muốn đi ngủ thì chi bằng niệm Chú thêm vài biến nữa có phải là mầu nhiệm hơn không? Cho nên, nếu niệm 108 biến cho từng món đồ vật thì sẽ tốt hơn.

 

“Tất sẽ được sống lâu.” Người đó nhất định sẽ được thọ mạng lâu dài. Thọ mạng lâu dài là bao nhiêu lâu? Không ai có thể biết được, vì sự lâu dài này không có cùng tận, quý vị muốn lâu bao nhiêu thì sẽ được lâu bấy nhiêu. Nếu quý vị nói: “A! Tôi không muốn sống lâu đến thế”; thì bất cứ lúc nào quý vị cũng có thể vãng sanh, hết sức tự do tự tại. Vì thế, thọ mạng dài bao lâu thì cũng không ai biết được, không ai có thể quyết định cho quý vị được cả!

 

KINH VĂN:

 “NHƯỢC NĂNG NHƯ PHÁP KẾT GIỚI, Y PHÁP THỌ TRÌ, NHẤT THIẾT THÀNH TỰU. KỲ KẾT GIỚI PHÁP GIẢ: THỦ ĐAO, CHÚ NHỊ THẬP NHẤT BIẾN, HOẠCH ĐỊA VI GIỚI; HOẶC THỦ TỊNH THỦY, CHÚ NHỊ THẬP NHẤT BIẾN, TÁN TRƯỚC TỨ PHƯƠNG VI GIỚI; HOẶC THỦ BẠCH GIỚI TỬ, CHÚ NHỊ THẬP NHẤT BIẾN, TRỊCH TRƯỚC TỨ PHƯƠNG VI GIỚI; HOẶC DĨ TƯỞNG ĐÁO XỨ VI GIỚI; HOẶC THỦ TỊNH KHÔI, CHÚ NHỊ THẬP NHẤT BIẾN VI GIỚI; HOẶC CHÚ NGŨ SẮC TUYẾN NHỊ THẬP NHẤT BIẾN, VI NHIỄU TỨ BIÊN VI GIỚI, GIAI ĐẮC.

NHƯỢC NĂNG NHƯ PHÁP THỌ TRÌ, TỰ NHIÊN KHẮC QUẢ.”

 

“Nếu có thể như Pháp kết giới, y Pháp thọ trì, thì tất cả sẽ được thành tựu. Phương pháp kết giới như sau: lấy con dao và tụng chú hai mươi mốt biến, rồi rạch đất làm giới hạn; hoặc lấy nước sạch và tụng chú hai mươi mốt biến, rồi rảy khắp bốn phương làm giới hạn; hoặc lấy hạt bạch giới và tụng chú hai mươi mốt biến, rồi ném ra bốn phương làm giới hạn; hoặc lấy chỗ mà tâm nghĩ tưởng tới làm giới hạn; hoặc lấy tro sạch và tụng chú hai mươi mốt biến làm giới hạn; hoặc tụng chú vào chỉ ngũ sắc hai mươi mốt biến, rồi cột quanh bốn bên làm giới hạn; đều được cả.

Nếu có thể như pháp mà thọ trì, tự nhiên sẽ có thành quả.” 

 

LƯỢC GIẢNG:

“Nếu có thể như pháp kết giới, y pháp thọ trì.” Nếu có thể theo đúng cách thức này mà kết giới, y chiếu pháp Đại Bi mà thọ trì Chú Đại Bi, cũng có nghĩa là y theo phương pháp này mà tu trì pháp Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn, “thì tất cả sẽ được thành tựu,” cầu cái gì thì được cái đó. Thế thì phương pháp kết giới là như thế nào? “Phương pháp kết giới như sau,” bây giờ tôi sẽ giảng cho quý vị rõ.

 

“Lấy con dao và tụng chú hai mươi mốt biến rồi rạch đất làm giới hạn.” Quý vị phải lấy một con dao, lấy dao để làm gì? Chẳng lẽ để giết người sao? Ở đây, quý vị lấy dao không phải để giết người mà là để “giết đất,” tức là “rạch đất làm giới hạn.” Sau khi tụng chú vào con dao hai mươi mốt biến thì cũng cần phải “tam thóa,” tức là hà hơi vào con dao ba lần. Chẳng phải phần trước tôi đã giảng về “tam thóa” rồi hay sao?

 

Sau khi đã “tam thóa” thì dùng con dao đó để “rạch đất làm giới hạn”—quý vị muốn một phạm vi bao xa, diện tích bao lớn, thì cầm dao vẽ đường chu vi, tạo thành một lằn ranh trên mặt đất để làm giới hạn. Tất cả thiên ma ngoại đạo, yêu ma quỷ quái đều không thể nào vào được bên trong của đường ranh giới này. Họ chỉ có thể ở bên ngoài, chứ không được phép bén mảng tới phía trong vòng kết giới—bởi vì đây chính là chỗ kỳ diệu của Chú Đại Bi. Một khi quý vị đã kết giới rồi, thì nơi đó thuộc phạm vi của quý vị.

 

“Hoặc lấy nước sạch và tụng chú hai mươi mốt biến.” Hiện nay đa số đều dùng nước sạch (tịnh thủy) để kết giới vì tiện lợi, chỉ cần dùng một ly nước sạch thôi là được. Quý vị lấy một ly nước sạch và chú niệm vào ly nước ấy hai mươi mốt biến Chú Đại Bi, rồi sau đó, khi có Pháp hội thì dùng để “sái tịnh.” Sái tịnh cũng chính là kết giới—mọi người cùng nhau niệm Chú Đại Bi, và cầm cành dương liễu nhúng vào ly nước sạch đó, “rồi rảy khắp bốn phương làm giới hạn.” Nước rảy đến chỗ nào thì chỗ đó là giới hạn.

“Hoặc lấy hạt bạch giới và tụng chú hai mươi mốt biến.” Quý vị cũng có thể dùng hạt của cây bạch giới (hạt cải trắng), tụng vào đó hai mươi mốt biến Chú Đại Bi, “rồi ném ra bốn phương làm giới hạn.” Quý vị hướng ra bốn phương mà rải, hễ hạt bạch giới văng đến đâu thì lấy đó làm giới hạn kết giới.

 

“Hoặc lấy chỗ tâm nghĩ tưởng tới làm giới hạn.” Quý vị cũng có thể lấy nơi mà tâm mình nghĩ tưởng tới để làm giới hạn—quý vị nghĩ tới chỗ nào thì chỗ đó liền được xem là giới hạn. Thí dụ như chúng ta đang ở đây và nghĩ rằng: “Ồ! Tôi muốn lấy chỗ ánh sáng của mặt trăng làm giới hạn”; thì chỗ có ánh trăng đều được xem là thuộc trong vòng kết giới của quý vị. Nếu chúng ta nghĩ muốn lấy chỗ có ánh sáng của mặt trời làm giới hạn, thì chỗ có ánh mặt trời cũng được kể là ở trong vòng kết giới của chúng ta. Nếu nghĩ rằng bốn đại bộ châu thuộc giới hạn kết giới của chúng ta, thì cả bốn đại bộ châu đều thuộc về phạm vi kết giới của chúng ta.  

“Hoặc lấy tro sạch và tụng chú hai mươi mốt biến làm giới hạn.” “Tro sạch” (tịnh khôi) tức là thứ tro ở trong lư hương. Quý vị có thể lấy thứ tro này và chú niệm vào đó hai mươi mốt biến, rồi rải ra xung quanh để làm giới hạn.  

“Hoặc tụng chú vào chỉ ngũ sắc hai mươi mốt biến, rồi cột quanh bốn bên làm giới hạn.” Hoặc là dùng loại chỉ năm màu và niệm hai mươi mốt biến chú vào sợi chỉ đó rồi cột vòng xung quanh bốn bên để làm giới hạn.  

Trong những cách kết giới này, quý vị muốn áp dụng cách nào cũng “đều được cả,” không nhất thiết quy định phải dùng loại nào, nên rất thuận tiện. Quý vị không có thứ này thì có thể dùng thứ khác—không có chỉ ngũ sắc thì có thể dùng tro, không có tro thì có thể dùng nước sạch, không có nước sạch thì có thể dùng hạt bạch giới, không có hạt bạch giới thì có thể dùng con dao. Quý vị chọn cách nào cũng được cả, tùy sở thích của mình, muốn thứ nào thì dùng thứ đó. Hoặc là trong lòng mình suy nghĩ: “À! Tôi muốn nội trong 500 miles đều là nơi kết giới của tôi!” thì đều được cả.  

“Nếu có thể như pháp mà thọ trì, tự nhiên sẽ có thành quả.” Nếu quý vị có thể y chiếu theo pháp này mà tu hành thọ trì, thì tự nhiên sẽ đạt được hiệu quả, có thể chứng được quả vị.  

 

Bồ Đề Hải 82

 

KINH VĂN:
“NHƯỢC VĂN THỬ ĐÀ-LA-NI DANH TỰ GIẢ, THƯỢNG DIỆT VÔ LƯỢNG KIẾP SANH TỬ TRỌNG TỘI, HÀ HUỐNG TỤNG TRÌ GIẢ? NHƯỢC ĐẮC THỬ THẦN CHÚ TỤNG GIẢ, ĐƯƠNG TRI KỲ NHÂN DĨ TẰNG CÚNG DƯỜNG VÔ LƯỢNG CHƯ PHẬT, QUẢNG CHỦNG THIỆN CĂN.


NHƯỢC NĂNG VI CHƯ CHÚNG SANH BẠT KỲ KHỔ NẠN, NHƯ PHÁP TỤNG TRÌ GIẢ, ĐƯƠNG TRI KỲ NHÂN TỨC THỊ CỤ ĐẠI BI GIẢ, THÀNH PHẬT BẤT CỬU; SỞ KIẾN CHÚNG SANH, GIAI TẤT VI TỤNG, LINH BỈ NHĨ VĂN, DỮ TÁC BỒ-ĐỀ NHÂN, THỊ NHÂN CÔNG ĐỨC VÔ LƯỢNG VÔ BIÊN, TÁN BẤT KHẢ TẬN”.
 

“Nếu người nghe danh tự của Đà La Ni này còn được tiêu diệt tội nặng sanh tử trong vô lượng kiếp, thì huống chi là người trì tụng! Nếu người nào gặp được thần chú này mà tụng trì, nên biết rằng người ấy đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, rộng trồng căn lành.


Nếu người nào có thể vì dứt trừ khổ nạn cho các chúng sanh mà như Pháp tụng trì, nên biết rằng người đó chính là bậc có đủ tâm Đại Bi, chẳng bao lâu nữa sẽ thành Phật. Người đó thấy các chúng sanh thì đều vì họ mà tụng, khiến cho chính tai họ được nghe, để cùng gây nhân Bồ Đề. Công đức của người đó là vô lượng vô biên, tán thán không hết được!”

LƯỢC GIẢNG:

“Nếu người nghe danh tự của Đà La Ni này - ”Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Từ Đại Bi Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Thần Diệu Chương Cú” - “còn được tiêu diệt tội nặng sanh tử trong vô lượng kiếp, thì huống chi là người trì tụng!” Quý vị chỉ vừa được nghe đến tên của Chú Đại Bi thì bao nhiêu sanh tử trọng tội trong vô lượng kiếp đều được tiêu trừ.

Thế thì, có người nói rằng: “Tôi đã nghe nhiều lần lắm rồi, hẳn là tôi có thể tiêu trừ rất nhiều sanh tử trọng tội trong vô lượng kiếp!”

Cũng có thể! Có thể quý vị tiêu diệt được vô lượng sanh tử trọng tội, song quý vị lại cũng gây tạo vô lượng sanh tử trọng tội nữa; do đó số tội được tiêu diệt không nhiều bằng số tội gây tạo, và như thế thì chẳng khác nào chưa tiêu diệt được vậy! Vì sao? Đó là vì quý vị không thể “y pháp tu hành”. Phải “y pháp tu hành” thì mới có thể hoàn toàn tiêu diệt nghiệp tội được!
“Huống chi là người trì tụng!” Chỉ nghe được tên gọi mà có thể tiêu trừ được nhiều nghiệp tội đến thế, thì huống chi là chính mình có thể tự kiên trì đọc tụng Chú Đại Bi này!

“Nếu người nào gặp được thần chú này mà tụng trì…” “Tụng giả” tức là người có khả năng trì tụng. Nếu có người nào có thể tụng trì thần chú này, thì quý vị “nên biết rằng người ấy đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, rộng trồng căn lành”. Quý vị cần phải biết rằng chính quý vị đây cũng là những người trong quá khứ đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, gieo trồng nhiều thiện căn, cho nên nay mới được hạnh ngộ Chú Đại Bi Đà La Ni! Nếu quý vị chưa từng cúng dường vô lượng chư Phật, thì cho dù quý vị có nghe thì cũng không lọt được vào tai, hoặc là vào tai này lại ra tai kia mà thôi, không thể nào ghi nhớ được!

“Nếu người nào có thể vì dứt trừ khổ nạn cho các chúng sanh mà như Pháp tụng trì…” Điều tối quan trọng là phải tụng trì đúng Pháp; nếu không “như Pháp tụng trì” thì dù có tụng cũng chẳng có công hiệu!

Vậy, giả sử có người có thể tụng Chú Đại Bi, quán tưởng vì tất cả chúng sanh tiêu trừ khổ nạn, có thể y chiếu pháp Đại Bi để tụng trì, thì “nên biết rằng người đó chính là bậc có đủ tâm Đại Bi, chẳng bao lâu nữa sẽ thành Phật”. Quý vị cần phải biết rằng những người như thế chính là hóa thân của Đại Bi Quán Thế Âm Bồ-tát, có đầy đủ lòng từ bi rộng lớn, và sắp sửa được thành Phật.

“Người đó thấy các chúng sanh thì đều vì họ mà tụng, khiến cho chính tai họ được nghe, để cùng làm nhân Bồ Đề”. Đối với các chúng sanh mình gặp, người đó đều vì họ mà trì tụng Chú Đại Bi, khiến cho tất cả đều chính tai được nghe bài Chú Đại Bi và tên của Chú Đại Bi. Nhờ nghe được bài Chú Đại Bi hoặc tên của Chú Đại Bi, các chúng sanh này đều có thể gieo trồng nhân Bồ Đề về lâu xa.

“Công đức của người đó là vô lượng vô biên, tán thán không hết được!” Người này thường xuyên niệm Chú Đại Bi, cho nên công đức làm cho chúng sanh luôn được nghe âm thanh của Chú Đại Bi của người này là vô lượng vô biên. Công đức ấy thật là vô cùng vô tận, chúng ta không có cách nào khen ngợi cho hết được!

 

KINH VĂN:


“NHƯỢC NĂNG TINH THÀNH DỤNG TÂM, THÂN TRÌ TRAI GIỚI, VI NHẤT THIẾT CHÚNG SANH SÁM HỐI TIÊN NGHIỆP CHI TỘI, DIỆC TỰ SÁM TẠ VÔ LƯỢNG KIẾP LAI CHỦNG CHỦNG ÁC NGHIỆP, KHẨU TRUNG “CẤP CẤP” [
馺馺] TỤNG THỬ ĐÀ LA NI, THANH THANH BẤT TUYỆT GIẢ, TỨ SA MÔN QUẢ, THỬ SANH TỨC CHỨNG.


KỲ LỢI CĂN HỮU HUỆ QUÁN PHƯƠNG TIỆN GIẢ, THẬP ĐỊA QUẢ VỊ, KHẮC HOẠCH BẤT NAN; HÀ HUỐNG THẾ GIAN TIỂU TIỂU PHÚC BÁO? SỞ HỮU CẦU NGUYỆN, VÔ BẤT QUẢ TOẠI GIẢ DÃ!”

“Nếu hay với tâm tinh cần chí thành, giữ gìn trai giới, vì tất cả chúng sanh mà sám hối những nghiệp tội thuở trước, và tự mình cũng sám tạ vô số ác nghiệp từ vô lượng kiếp đến nay, nơi miệng liên tục, đều đặn tụng Đà La Ni này, tiếng tiếng không dứt, thì sẽ chứng được Tứ Quả Sa Môn ngay trong đời này.

Nếu là hàng lợi căn có phương tiện Tuệ Quán, thì việc chứng được quả vị Thập Địa còn không lấy gì làm khó, huống là những phước báo nhỏ nhặt ở thế gian! Mọi điều mong cầu chẳng có điều gì là không được toại nguyện cả!”

LƯỢC GIẢNG:

“Nếu hay với tâm tinh cần chí thành” “Nếu hay” tức là đặt giả thiết, ví dụ rằng có việc như thế. “Tinh” có nghĩa là chuyên nhất; “thành” là chí thành. Vậy thì quý vị chỉ một lòng chuyên nhất, không sanh tâm tạp loạn, như thế để làm gì? Để “giữ gìn trai giới”. “Thân” tức là thân thể; “trì” là thọ trì, gìn giữ; “trai” tức là ăn chay, không ăn thịt; và “giới” là giới trừ, không làm các việc ác.


“Vì tất cả chúng sanh mà sám hối những nghiệp tội thuở trước”. Tất cả chúng sanh đều có các nghiệp tội và giả sử rằng quý vị có thể tinh nghiêm hành trì giới luật, và có thể thay mặt họ để sám hối cho bao nghiệp tội họ đã trót gây tạo trong quá khứ.


“Và tự mình cũng sám tạ vô số ác nghiệp từ vô lượng kiếp đến nay”. Điều này thì tuy không phải vì mình mà cũng chính là vì mình - bởi vì mình cũng là một trong số các chúng sanh, cho nên nói sám hối cho tất cả chúng sanh cũng có nghĩa là sám hối cho chính mình vậy.


“Từ vô lượng kiếp đến nay” tức là từ vô lượng kiếp trong quá khứ cho đến hiện tại. Những ác nghiệp mà chúng ta đã gây tạo từ vô thủy kiếp đến nay, từ đời này sang đời khác, thì nhiều đến vô lượng vô biên.


“Nơi miệng liên tục, đều đặn tụng Đà La Ni này, tiếng tiếng không dứt”. ”Cấp cấp” là từ tượng thanh cho tiếng chân ngựa đang chạy cộp cộp trên đường lộ. Tiếng tụng Chú Đại Bi của quý vị phải giống như âm vang của tiếng ngựa chạy - liên tục, đều đặn, rành rẽ, câu nọ tiếp nối câu kia, không hề đứt đoạn: “Nam Mô Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da… ” “Không dứt” tức là niệm tiếng này sang tiếng khác, liên tục, không gián đoạn. Quý vị không nên miệng niệm Chú Đại Bi mà tâm lại sanh vọng tưởng rồi ngưng niệm nửa chừng; mà cần phải luôn luôn giữ cho mình được “tâm niệm chuyên nhất”.


“Thì sẽ chứng được Tứ Quả Sa Môn ngay trong đời này”. Tứ Quả Sa Môn tức là bốn quả vị: Sơ quả A La Hán, Nhị quả A La Hán, Tam quả A La Hán và Tứ quả A La Hán. Quý vị có thể chứng được quả vị A La Hán ngay trong đời hiện tại, tuy nhiên, quý vị cần phải niệm với lòng thiết tha thành khẩn.


“Nếu là bậc lợi căn có phương tiện Tuệ Quán…” “Lợi căn” có nghĩa là thông minh. Nếu là người thông minh, có thể dùng trí tuệ để quán sát, thấu rõ trùng trùng pháp môn phương tiện và chuyên tâm trì tụng Chú Đại Bi, “thì việc chứng được quả vị Thập Địa còn không lấy gì làm khó”.


Thập Địa tức là mười vị trí; gồm có: Hoan Hỷ Địa, Ly Cấu Địa, Phát Quang Địa, Diệm Tuệ Địa, Nan Thắng Địa, Hiện Tiền Địa, Viễn Hành Địa, Bất Động Địa, Thiện Tuệ Địa và Pháp Vân Địa. Đây là mười quả vị của hàng Bồ Tát và chẳng dễ gì mà chứng đắc được, thế nhưng, nếu quý vị nhất tâm chuyên chú trì niệm Chú Đại Bi, thì quý vị sẽ chứng đắc một cách không khó khăn gì cả!


“Khắc” có nghĩa là có thể; “khắc hoạch” tức là có thể có được. Các quả vị của Thập Địa vốn rất khó mà đạt được, song nay nhờ quý vị tụng trì Chú Đại Bi, cho nên việc này chẳng còn gì là khó khăn nữa!


“Huống là những phước báo nhỏ nhặt ở thế gian!” Thế nào gọi là “những phước báo nhỏ nhặt ở thế gian”? Được làm vua, làm tổng thống, hoặc làm người giàu có nhất… Đây đều là “những phước báo nhỏ nhặt ở thế gian”, chẳng có gì là đặc biệt lắm đâu!


“Mọi điều mong cầu chẳng có điều gì mà không được toại nguyện cả!” Quý vị sẽ được “toại tâm mãn nguyện” với mọi mong cầu - tuy nhiên, quý vị còn nhớ không? Quý vị cần phải dứt bỏ tâm hoài nghi! Quý vị:


“Nhược sanh thiểu nghi tâm giả,
tất bất đắc quả toại dã”.
(Nếu sanh chút lòng nghi,
thì kết quả sẽ không được toại ý!)


Nếu quý vị có một chút băn khoăn, nghi ngại, dù chỉ bằng sợi tóc, thì cũng sẽ không đạt được điều mình hằng ao ước mong cầu, cho nên điều tất yếu là quý vị phải chân chánh thành tâm.


Tôi thường nói với quý vị rằng:


Không bỏ được lòng nghi, tất không thể sanh tín tâm;
Không bỏ được mê lầm, tất không thể được khai ngộ;
Không bỏ được đường tà, tất không thể quay về nẻo chánh;
Không bỏ được sự giả dối, tất không có được sự chân thành;
Không bỏ được sự tử, tất không thể chấm dứt sự sanh.


Cho nên, chúng ta không được sanh tâm nghi ngờ đối với việc trì tụng Chú Đại Bi. Nếu quý vị có một chút hoài nghi thì sẽ không được toại nguyện. Sự “tất đắc quả toại” đòi hỏi chúng ta cần phải không có mảy may nghi ngờ; bởi chỉ cần có một chút hoài nghi, thì mọi việc sẽ không thể thành tựu được!

 

Bồ Đề Hải 83

 

- Này thiện nam tử! Nếu người nào muốn sai khiến quỷ, thì tìm một chiếc xương sọ của kẻ qua đời, đem về rửa sạch. Kế đó lập đàn tràng để chiếc xương ấy trước tượng Thiên Nhãn, chí tâm tụng chú, mỗi ngày đều dùng hương hoa, cùng các thứ ăn uống cúng tế vong linh, đúng 7 ngày như thế, quỷ sẽ hiện thân, tùy theo mạng lịnh của người ấy sai bảo. 

Như hành nhơn muốn sai khiến Tứ Thiên Vương, thì tụng chú này vào gỗ đàn hương rồi đốt lên, sẽ thấy hiệu quả. Sở dĩ được như thế cũng là do nguyện lực đại từ bi của Quán Thế Âm Bồ Tát sâu nặng, lại cũng do oai thần rộng lớn của đà ra ni này. 

 

Bồ Đề Hải 84

 

KINH VĂN:

Âm: PHẬT CÁO A-NAN: “NHƯỢC HỮU QUỐC ĐỘ, TAI NẠN KHỞI THỜI, THỊ ĐỘ QUỐC VƯƠNG, NHƯỢC DĨ CHÁNH PHÁP TRỊ QUỐC, KHOAN TÚNG NHÂN VẬT, BẤT UỔNG CHÚNG SANH, XÁ CHƯ HỮU QUÁ, THẤT NHẬT THẤT DẠ, THÂN TÂM TINH TẤN, TỤNG TRÌ NHƯ THỊ ĐẠI BI TÂM ĐÀ-LA-NI THẦN CHÚ, LINH BỈ QUỐC ĐỘ, NHẤT THIẾT TAI NẠN TẤT GIAI TRỪ DIỆT, NGŨ CỐC PHONG ĐĂNG, VẠN TÁNH AN LẠC.”

Nghĩa: Đức Phật bảo ngài A Nan: “Nếu có đất nước nào khi tai nạn nổi lên mà vị quốc vương của nước đó biết lấy Chánh Pháp để trị quốc, khoan túng với người và vật, không làm oan uổng chúng sanh, ân xá những kẻ có tội, và bảy ngày bảy đêm thân tâm luôn tinh tấn tụng trì thần chú Đại Bi Tâm Đà La Ni này; thì sẽ khiến cho trong đất nước ấy tất cả tai nạn đều tiêu tan, ngũ cốc được dồi dào, dân chúng được an lạc.”

LƯỢC GIẢNG:

Đức Phật bảo ngài A Nan. Sau khi thuyết phần kinh văn trên xong, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói với Tôn giả Khánh Hỷ, tức là Tôn giả A Nan, vị tổ thứ hai của Ấn Độ, rằng: “Nếu có đất nước nào khi tai nạn nổi lên…”

Thế nào gọi là “tai”? Thế nào gọi là “nạn”? “Tai” thì có tam tai, tức là ba thứ tai ương-thủy tai, hỏa tai và phong tai. “Nạn” thì có bát nạn, tức là tám sự khó khăn. Thật ra, “nạn” không phải chỉ có tám mà là rất nhiều loại. Phàm gặp những sự việc mà mình không dễ gì vượt qua được, thì đều gọi là “nạn”; và lúc bấy giờ trong lòng thường cảm thấy rất buồn bực, khó chịu. Cho nên, có khi người ta ghép chung với chữ “kiếp”, thành ra “kiếp nạn”.

“Kiếp” là tiếng Phạn, vốn đọc là “kiếp-ba”; dịch sang tiếng Trung Hoa là “kiếp”. Chữ kiếp () này gồm có chữ khứ () và bên cạnh có thêm chữ nhận ( lưỡi dao); ý nói là đi tới chỗ lưỡi dao. Chữ “kiếp” lại ngụ ý rằng không dễ gì mà vượt qua, cũng ví như lưỡi dao đi xuyên qua người của quý vị thì quý vị sẽ bị giết chết vậy. Cho nên, đây gọi là “kiếp nạn”. Thật ra, những trận thủy tai, hỏa tai, phong tai, hoặc động đất, mưa gió bão lụt, đại hồng thủy, hay dịch bệnh truyền nhiễm… đều được gọi là “tai nạn” cả.

Khi trong một nước có xảy ra tai nạn, “mà vị quốc vương của nước đó biết lấy Chánh Pháp để trị quốc…” Giả sử rằng vị vua của đất nước này là người sùng bái Phật Pháp, hoặc thọ trì Ngũ Giới, tu hành Thập Thiện, thực hành Bồ Tát Đạo; và có thể “khoan túng với người và vật.” “Khoan” là rộng lượng; “túng” là phóng thích, thả ra. Không giam giữ người dân trong ngục tù thì gọi là “khoan túng”. Không bắt nhốt cầm thú trong lồng hay trong chuồng cũng gọi là “khoan túng”.

“Không làm oan uổng chúng sanh.” Chữ “uổng” ở đây được hiểu là “uổng sát” (giết oan). “Bất uổng” tức là không tùy tiện sát hại chúng sanh một cách oan uổng; và cũng hàm ý là đoạn trừ tâm hiếu sát, không giết hại chúng sanh.

“Ân xá những kẻ có tội.” Bất luận người dân có phạm những tội lỗi gì, nhà vua đều tha thứ cho họ, buông tha họ, không trách phạt họ.

“Và bảy ngày bảy đêm thân tâm luôn tinh tấn.” Trong suốt bảy ngày bảy đêm, vị quốc vương đó thân tinh tấn, tâm cũng tinh tấn--cả thân lẫn tâm đều tinh tấn; tinh tấn làm việc gì? Đó là tinh tấn “tụng trì thần chú Đại Bi Tâm Đà La Ni này.” Lại nữa, nếu cả ngày lẫn đêm vị quốc vương ấy đều siêng năng trì niệm Chú Đại Bi, tu pháp môn Tổng Trì Đà-La-Ni, “thì sẽ khiến cho trong đất nước ấy, tất cả tai nạn đều tiêu tan.” Chính bản thân vị quốc vương trông mong điều gì? Đó là mong sao tất cả tai nạn, bất luận là đại nạn hay tiểu nạn, tam tai bát nạn hay tam tai cửu nạn, thậm chí là tam tai thập nạn đi nữa, thì tất cả đều bị tiêu trừ, không còn xảy ra cho đất nước của mình nữa.

“Ngũ cốc được dồi dào.” “Ngũ cốc” là năm loại cây lương thực—thóc lúa, cao lương (kê), ngô (bắp), lúa mạch, và các thứ đậu. Đây là tất cả những cây lương thực mà đất nước này trồng trọt. “Phong” là phong túc, tức là dồi dào, đầy đủ; “đăng” có nghĩa là được mùa, ngũ cốc đầy kho.

“Dân chúng được an lạc.” “Vạn tánh” là “lão bá tánh,” tức là muôn dân, nhân dân trong nước. Bấy giờ, người dân ở đất nước đó sẽ không gặp phải tai họa, thảy đều được sống trong sự an lạc. Nếu ăn không được no, mặc không đủ ấm—tức là còn chịu khổ sở, là chưa được an lạc vậy.

Lần này, về phương diện tên gọi và thứ lớp của năm người xuất gia này—ba vị Tỳ-khưu, hai vị Tỳ-khưu-ni—đều là bất khả tư nghì! Trong số năm người này, người xuất gia trước nhất là Quả Tiền; khi chú ấy thọ quy y thì được tôi đặt tên là “Quả Tiền,” và quả nhiên chú đã xuất gia trước những người khác. Có kẻ muốn tranh đua, chạy tới giành đứng phía trước chú, nhưng rồi cũng không qua mặt được, bởi vì chú đã ở đằng trước rồi!

Còn Quả Ninh, vì trước đây trong lòng thường cảm thấy bứt rứt bất an; bất an về điều gì? Tự trong tâm mình dằn vặt, trăn trở rất lâu: “Làm thế nào mới phải?” Do đó, khi quy y, tôi đặt tên cho chú ấy là Quả Ninh, và tự là Hằng Tịnh, vì muốn cho chú ấy luôn được “an ninh”. Quả Tiền thì tự là Hằng Khiêm, tức “khiêm hư” (khiêm tốn, khiêm nhượng).

Người thứ ba là Quả Hiện, tôi cũng không hiểu vì sao lại đặt cho Quả Hiện cái tên này! Vốn là Quả Tiền xuất gia trước và thọ giới Sa Di trước Quả Hiện; nhưng tôi lại không nói cho rõ ràng mà chính chú ấy cũng không hiểu rõ cho lắm.

Lần này đi thọ giới, Quả Hiện không được đi, vì chú ấy đã nổi nóng và tự cầm dao chặt đứt một ngón tay của mình; thiếu mất một ngón tay thì đành phải thọ giới trễ một chút vậy. Lúc chặt ngón tay, chú ấy không cho tôi biết; nếu chú thưa với tôi trước, hỏi tôi một tiếng, rằng: “Con muốn chặt ngón tay có được không?”, thì có lẽ đã không bị tụt lại đằng sau như thế. Chú ấy đã không nói rõ với tôi, mà âm thầm chạy tới nhà bếp tự chặt đứt một ngón tay, và làm cho tấm thớt cắt rau cải bị ô uế. Tôi nói là cũng còn dùng được, cho nên không cần phải thay tấm thớt mới! Ây da, như thế vẫn dùng tấm thớt đó để cắt rau cải thì ăn vào có thể bị thành tinh không? Cũng chẳng hề chi, thì thành yêu tinh thôi! Quả Hiện vì thế mà phải nằm bệnh viện mất mấy hôm, nay thì Quả Tiền đã đi Đài Loan trước rồi!

Trong số các Tỳ Khưu Ni, Quả Dật xin xuất gia trước cho nên sẽ đứng trước Quả Tu; Quả Tu thì xin xuất gia sau, cho nên xếp theo thứ tự thọ giới mà tính thì cô ta đứng hàng thứ tư trong số các Tỳ Khưu và Tỳ Khưu Ni.

Chuyến này sang Đài Loan, quý vị nhất định phải giữ gìn đạo phong của Phật Giáo Giảng Đường chúng ta! Không nên đến Đài Loan rồi thấy người ta ai nấy đều một ngày ăn hai, ba bữa—sáng sớm ăn, chiều tối ăn, giữa trưa cũng ăn nữa—thì mình bèn cũng ăn chút đỉnh. Quý vị muốn ăn ư? Được thôi, có điều là như thế thì e rằng đối với nền Phật Giáo của đất nước Hoa Kỳ sẽ không được tốt đẹp cho lắm! Nếu quý vị nhất định nói rằng: “Tôi muốn làm đảo lộn Phật Giáo Hoa Kỳ một phen, không để cho nó phát triển theo chiều hướng tốt!”; thì quý vị có thể tuỳ ý, muốn ăn ngày hai bữa hay ba bữa đều được cả! Đây là vì quý vị sang Đài Loan rồi bị ảnh hưởng của nơi đó, chứ không phải vì nghe theo lời giáo hóa của Sư Phụ, không phải vì học pháp của Sư Phụ—mà là do học các pháp tu của Đài Loan. Tôi không ép buộc quý vị phải miễn cưỡng nghe lời tôi.

Có câu:

Sư phụ lãnh tiến môn,

Tu hành tại cá nhân.

(Sư Phụ dẫn tới cửa,

Tu hành do mỗi người!)

Hiện tại đã vào trong cửa của Phật Giáo, có thể nói rằng tôi đã đưa quý vị bước vào bên trong cửa rồi. Khi quý vị còn mê muội thì tôi dẫn dắt quý vị tới tận cửa; nay quý vị khai ngộ rồi, thì quý vị phải làm gì là đều do chính quý vị tự định đoạt. Sau khi thọ giới rồi, quý vị thích làm gì thì đó là chuyện riêng của quý vị!

Hôm nay tôi đem tên mà tôi đặt cho quý vị ra để sắp xếp, trong sự âm thầm lặng lẽ có một thứ cảnh giới bất khả tư nghì. Tên mà tôi đặt cho quý vị—không riêng gì quý vị mà đối với mọi người cũng vậy—tất cả đều có nhân duyên của nó. Việc này tuy không phải là to tát cho lắm, song cũng không phải là chuyện nhỏ nhặt, bởi nó có liên quan đến vấn đề tiền nhân hậu quả.

Lúc Đại Sư Liên Trì thọ giới, Ngài đến trước bàn thờ Phật, lạy Phật, niệm Phật, lạy sám hối và được Phật đến rờ đỉnh đầu, truyền giới; đồng thời Đại Sư Trí Giả cũng đến truyền giới cho Ngài. Do đó, Đại Sư Liên Trì không đến Đài Loan, cũng chẳng tới Hương Cảng, mà vẫn đắc được Cụ Túc Giới!

Hiện nay, nếu Quả Hiện thành tâm một chút, có thể siêng năng lạy Phật, niệm Phật, thì không chừng sẽ đắc được Cụ Túc Giới ngay tại đây; tuy nhiên, chú ấy có đắc giới hay không thì tôi đều biết rõ. Nếu đắc giới, thì càng tốt; nếu chưa đắc giới, thì cứ từ từ lại càng tốt hơn nữa. Đắc hay không đắc thì đều nên từ từ mà thỉnh cầu, thế nào cũng được Bồ Tát đến gia trì cho!

Quý vị đến Đài Loan thọ giới, cần ghi nhớ là phải dũng mãnh tinh tấn, chớ nên chẳng có chút tinh tấn gì cả. Nếu Quả Hiện, người ở lại, không được đi Đài Loan, thật sự “hiện thân thuyết pháp,” đắc được giới rồi; còn quý vị sang tận Đài Loan mà lại không đắc giới, thì quý vị thật là uổng công phí sức vậy! Ôi……..!

 

Bồ Đề Hải 85

 

KINH VĂN:

 

Âm: “HỰU NHƯỢC VI Ư THA QUỐC OÁN ĐỊCH, SÁC LAI XÂM NHIỄU, BÁ TÁNH BẤT AN, ĐẠI THẦN MƯU PHẢN, DỊCH KHÍ LƯU HÀNH, THỦY HẠN BẤT ĐIỀU, NHẬT NGUYỆT THẤT ĐỘ, NHƯ THỊ CHỦNG CHỦNG TAI NẠN KHỞI THỜI, ĐƯƠNG TẠO THIÊN NHÃN ĐẠI BI TÂM TƯỢNG, DIỆN HƯỚNG TÂY PHƯƠNG, DĨ CHỦNG CHỦNG HƯƠNG HOA, TRÀNG PHAN BẢO CÁI, HOẶC BÁCH VỊ ẨM THỰC, CHÍ TÂM CÚNG DƯỜNG...”

Nghĩa: “Lại nếu bị nước thù nghịch khác rất nhiều lần xâm lấn, quấy nhiễu khiến dân chúng không được yên ổn; đại thần mưu phản; dịch bệnh lan tràn; mưa lụt, hạn hán bất thường; mặt trời và mặt trăng mất điều độ; khi các loại tai nạn như thế xảy ra thì nên tạo tượng Thiên Nhãn Đại Bi Tâm day mặt về hướng Tây, rồi đem các thứ hương, hoa, tràng phan, bảo cái, hoặc trăm món đồ ăn thức uống mà chí tâm cúng dường…”

 

LƯỢC GIẢNG:

Oai lực của Chú Đại Bi là bất khả tư nghì; sự vi diệu của Chú Đại Bi là bất khả tư nghì; và sự cảm ứng của Chú Đại Bi cũng là bất khả tư nghì.

 [Đức Phật nói tiếp:] “Lại nếu bị nước thù nghịch khác” “Hựu” tức là lại thêm nữa; lại có một lực lượng khác, lực lượng nào? Không phải của nước mình mà là của nước oán địch khác. “Oán địch” có nghĩa là có cừu oán, thù nghịch.

“Rất nhiều lần xâm lấn, quấy nhiễu” Tiếng Trung Hoa, chữ “số”「數」vốn được đọc là “shù” (音樹), nhưng ở đây thì đọc là “shuò”(音朔)và có nghĩa là rất nhiều. Đây là chữ trong Luận Ngữ, nằm ở câu “sự quân sác, tư nhục hỹ!” Cho nên, quý vị nào đã từng đọc sách Luận Ngữ, thì sẽ biết đây là chữ “sác” (âm shuò); nếu chưa hề xem qua sách Luận Ngữ, thì quý vị sẽ cho đây là chữ “số” (âm shù). Thật ra, đọc là “số” thì cũng được, vì cũng có nghĩa là “nhiều”; thế nhưng, đọc là “sác” thì hàm ý là “rất nhiều lần”-rất nhiều lần bị nước thù nghịch khác xâm lấn, nhiễu loạn.

Thế nào gọi là “học thức”? Như trường hợp chữ “sác” này chẳng hạn, nếu là người không có học thức thì sẽ đọc là “số”; nhưng nếu quý vị có học thức thật sự thì cho dù không được ai chỉ bảo, quý vị vẫn biết và đọc là “sác”. Có người sẽ thắc mắc: “Thế chẳng hay Thầy có học thức chân thật chăng?” Tôi không có học thức chân thật, vẫn còn là thứ học thức “giả thật” mà thôi! “Vậy thì tại sao Thầy lại biết mà đọc như thế?” Chẳng qua là có nhiều người đọc như thế, cho nên tôi cũng cứ thế mà đọc theo thôi!

 “Dân chúng không được yên ổn.” Dân chúng trong quốc gia đó đều sống trong sự lo sợ, bất an; vì sao? Vì có bọn thổ phỉ thường tới cướp bóc.

“Đại thần mưu phản.” “Đại thần” là những người làm quan. “Mưu phản” tức là có người trong số đó âm mưu tạo phản, thành ra cuộc “tạo phản hữu lý”.

“Dịch bệnh lan tràn.” “Dịch” tức là ôn dịch. Giống như hiện nay, có những lúc xuất hiện bệnh truyền nhiễm, dịch bệnh lan tràn khắp nơi. Ban đầu, bệnh dịch chỉ xuất hiện ở một địa phương, sau đó thì lan rộng cả thành phố. Thứ dịch bệnh này, quý vị đừng tưởng nó chỉ là một thứ dịch bệnh đơn thuần mà thôi đâu—đó đều là do bọn dịch quỷ làm ra. Dịch quỷ phóng ra dịch độc, người nào hít phải khí độc thì liền sanh bệnh, sẽ bị lây truyền bệnh cảm cúm.

 “Mưa lụt, hạn hán bất thường.” Thế nào là mưa lụt bất thường? Ví dụ đáng lẽ trời mưa một tháng thì lại mưa dầm dề suốt cả ba tháng, khiến cho các thứ hoa màu đều bị ngập úng vì nước ứ đọng quá nhiều. Tôi nghĩ rằng quý vị không thể không hiểu được điều này.

Còn hạn hán là thế nào? Vốn dĩ phải có mưa nhưng trời lại không đổ mưa, cả ngày từ sáng đến tối không có giọt nước mưa nào cả.

Bây giờ, nhân Trương Quả Huệ và Đàm Quả Thức đều có mặt ở đây, tôi sẽ kể về vận may của tôi, mong hai vị hãy làm chứng để mọi người tin tưởng lời tôi, đây không phải là tôi nói khoác lác. Ở Hương Cảng, cứ cách một khoảng thời gian là bị nạn hạn hán; và có một năm nọ, suốt hơn nửa năm trời mà không có một giọt mưa nào cả, khiến dân chúng toàn Hương Cảng hằng ngày đều phải hạn chế lượng nước sử dụng trong sinh hoạt, không có đủ nước để uống.

Trước kia, ở Tây Lạc Viên vốn không có nước, nhưng từ khi xây cất thành Chùa Tây Lạc Viên thì nơi đây lại có nước–nước từ trong khe đá chảy ra! Ban đầu, lúc mới có nước chảy ra, thì tôi gặp rất nhiều chuyện phiền phức. Phiền phức thế nào ư? Hàng xóm láng giềng đều đổ xô đến để giành lấy nước! Vừa thấy ở chỗ tôi có nước là lập tức hết người này đến người kia đem thùng đến giành nhau hứng nước, họ xếp cả hàng dài có hơn hai mươi mấy cái thùng chuẩn bị để đựng nước. Về sau, không còn cách nào khác, tôi đành phải dùng lưới sắt rào lại; nhờ đó mà không còn ai đến tranh giành lấy nước nữa. Này Trương Quả Huệ, sự việc lúc đó có phải là như thế không?

Bấy giờ, có một dạo suốt cả sáu tháng không có mưa, nguồn nước trong Tây Lạc Viên của tôi cũng khô cạn, lượng nước từ trên núi chảy xuống rất ít ỏi và lại nồng nặc mùi lưu huỳnh, không thể dùng để nấu ăn hay uống được. Lúc đó có Lưu Quả Quyên, mọi người còn nhớ không? Bấy giờ, tôi đã ra lệnh cho Lưu Quả Quyên rằng: “Nội trong ba ngày con phải cầu xin cho được mưa xuống! Con phải ngày ngày niệm Phật cầu nguyện, nếu cầu mà không được thì đừng đến gặp mặt Sư Phụ nữa!” Tôi đã nói với bà ta như vậy đấy. Lưu Quả Quyên nghe tôi ra lệnh như vậy thì hoảng hốt, bởi vì điều làm bà ta lo sợ nhất là không được gặp Sư Phụ. Vì thế cho nên việc gì bà ta cũng chấp nhận, miễn sao bất cứ lúc nào cũng có thể được gặp Sư Phụ! Người đệ tử lão thành này do hoang mang, lo sợ nên ngày ngày đều cầm xâu chuỗi trong tay chăm chỉ niệm Phật, bận rộn niệm Chú Đại Bi, khoảng ba hôm liền quên ăn quên ngủ, cứ lo là không cầu được mưa!

Trong thời gian hơn nửa năm ấy, tất cả các Phật Đường, chùa chiền, am miếu, trai đường, Đông Phổ Đà, Tây Phổ Đà… ở Hương Cảng đều cầu mưa, song cầu xin ròng rã suốt mấy tháng trời mà trời vẫn chưa đổ mưa. Ở chỗ tôi, sau khi tôi kỳ hạn cho Quả Quyên nếu nội trong ba ngày mà cầu không được mưa thì đừng đến gặp mặt tôi, thì chỉ khoảng hai ngày rưỡi sau là trời bắt đầu đổ mưa. Trời vừa đổ mưa thì tất cả các Phật Đường đều rầm rộ đăng báo “quảng cáo”—nơi này thì nói rằng: “Cơn mưa này là nhờ chúng tôi cầu nguyện mà được đấy!”; nơi khác lại đưa tin: “Cơn mưa này là do Phật Đường chúng tôi cầu xin đấy!” Ái chà! Tất cả các Phật Đường đều có công lao, duy chỉ có Chùa Tây Lạc Viên là không báo công cũng chẳng báo đức; và mưa thì cứ thế mà trút xuống!

Vì sao lại xảy ra chuyện như thế? Vì sao tôi lại hạn định cho Quả Quyên nội trong ba ngày phải cầu cho được mưa? Thật ra, tôi nói cho quý vị biết, không cần phải đợi tới ba ngày mà ngay trong ngày hôm đó, nếu tôi bảo mưa thì trời sẽ đổ mưa ngay; tuy nhiên, tôi muốn cho người đệ tử kỳ cựu này niệm Phật nhiều hơn, tích lũy công đức nhiều hơn, cho nên tôi đã giao công việc này cho bà, bảo bà vì mọi người mà cầu mưa.

Tôi biết rằng không cần phải đợi tới ba ngày mà chỉ nội trong một ngày, tôi muốn có mưa thì sẽ có mưa ngay; vì sao? Vì tôi có mười đệ tử là rồng, và cả mười chú rồng này, hễ tôi bảo chú rồng nào làm mưa thì chú ấy đều mưa xuống cho tôi một ít nước. Cũng giống như sáu đệ tử xuất gia người Mỹ của tôi hiện nay vậy–tôi bảo họ làm gì thì họ đều răm rắp làm theo; nếu người nào không vâng lời thì tôi cũng không cần đến người đó nữa, tôi chẳng cưỡng ép ai cả. Cũng như chú tiểu Sa-di không chịu nghe lời tôi răn dạy, tự chặt đứt một ngón tay của mình nên đã bị đuổi ra khỏi chùa; bây giờ, sau mấy tháng, chú ấy xin được về chùa lại. Tôi tự nghĩ: “Không đúng! Bất luận chú ấy có chịu nghe lời hay không, thì cũng phải đợi một thời gian nữa xem sao!” Thế là tôi cho phép chú ấy trở về chùa. Ban đầu thì cũng có rất nhiều người phản đối, không muốn cho chú ấy trở về, nhưng tôi bảo là không nên ngăn cấm chú ấy trở về, và thế là chú ấy đã về chùa lại rồi.

Tôi lại chuốc lấy phiền phức rồi! Phiền phức vì chuyện gì? Có một người đến tìm tôi và khi gặp tôi thì liền chất vấn: “Bộ Thầy nói thành phố San Francisco không động đất thì sẽ không động đất hay sao? Lời Thầy nói đã chẳng thành hiện thực!”  

Không sai! Hôm mồng một tháng ba năm ngoái, có người nói là vào khoảng tháng tư hoặc tháng năm, sẽ có trận động đất xảy ra ở thành phố San Francisco, thì tôi có nói rằng: “Tôi không cho phép đất chấn động!”

Tôi đã cả gan dám thốt ra lời “đại ngôn,” khoác lác to lớn như thế! Lời nói này xem ra chỉ lớn bằng một hạt bụi! “Hễ ngày nào tôi còn ở thành phố San Francisco, thì tôi sẽ không cho phép đất nơi này chấn động! Đến khi nào tôi rời khỏi nơi này, thì tôi mới không còn quan tâm đến nó nữa mà thôi!” Nói về địa chấn, thì tôi có thể nói như thế này: Đối với đại địa chấn thì tôi sẽ khiến cho nó nhỏ bớt một chút; còn nếu là tiểu địa chấn thì tôi sẽ khiến cho nó không xảy ra!

Hồi năm ngoái, có người tin tưởng lời tôi và bảo tôi đừng rời khỏi San Francisco, bởi vì nếu tôi đi rồi thì sợ rằng thành phố này sẽ bị chìm dưới đáy biển, chẳng có cách nào cứu vãn được! Nghe họ nói như thế, tôi bèn trấn an họ rằng: “Quý vị chớ lo sợ, San Francisco sẽ không bị động đất đâu!” Có nhiều người cho rằng chắc chắn là tôi không đúng, bởi họ dựa trên sự tính toán khoa học. Tôi nói rằng tôi cũng tính toán vậy, và theo cách tính toán không khoa học của tôi thì sẽ không có động đất xảy ra. Tôi dám lớn tiếng khẳng định: “Tôi không cho phép đất chấn động! Quý vị hãy yên tâm đi!” Thế nhưng, một số người giàu có không tin, bèn dọn đi khỏi San Francisco. Có một số người lại không sợ; vì không sợ, nên chẳng thèm có động tĩnh gì!

Cuối cùng, có động đất xảy ra đấy, nhưng cơn chấn động này có cường độ rất nhỏ; vì sao lại được như thế? Đó là do tôi đã bảo chư vị hộ pháp phải ủng hộ. Tôi biết rằng thiên long bát bộ, chư thiện thần hộ pháp, nhất định sẽ ủng hộ, che chở cho chúng ta; vì sao? Vì chư thiên long bát bộ hộ pháp sẽ không hại người!

Hoặc là trong quốc gia đó xảy ra hiện tượng “mặt trời và mặt trăng mất điều độ. “Nhật” là mặt trời, tức là ban ngày; “nguyệt” là mặt trăng, tức là ban đêm; “thất độ” là thất thường, mất cân bằng—có lúc thì mặt trời chiếu gay gắt, có lúc thì mặt  trăng tròn dịu mát. Hiện tượng này không phải là gia tăng dần dần từng ngày một, hoặc là mỗi ngày mỗi giảm thiểu từ từ; mà là khoảng cách đột nhiên kéo dài hoặc đột nhiên thu ngắn lại. Đây gọi là “nhật nguyệt thất độ”, là không cân bằng; và chính là biểu hiện của một loại thiên tai.

“Khi có các loại tai nạn như thế xảy ra thì nên tạo tượng của Thiên Nhãn Đại Bi Tâm–tức là Bồ Tát Quán Thế Âm–mặt day về hướng Tây.” Bấy giờ, cần phải tạc tượng Bồ Tát Quán Thế Âm và đặt tượng quay mặt về hướng Tây. Bởi vì Đức Phật A Di Đà thì ở phương Tây và là thầy của Bồ Tát Quán Thế Âm, cho nên đặt tượng Bồ Tát Quán Thế Âm nhìn về hướng thầy mình là tỏ lòng cung kính của người đệ tử.

Như sáu người đệ tử của tôi, khi nghe có người khen ngợi sư phụ của họ, rằng: “Thật là bất khả tư nghì! Thầy của quý vị quả đúng là có thần thông! Ông ta nói ra điều gì cũng linh nghiệm cả. Chà! Nói có mưa là có mưa xuống ngay!”; thì họ không hoan hỷ cho lắm. Thế nhưng, nếu có người nhục mạ sư phụ của họ ngay trước mặt họ, như nói rằng: “Ông Sư phụ của quý vị cái gì cũng không hiểu cả, quý vị theo ông ta thì học được cái gì chứ? Quý vị càng học thì càng ngu si hơn, càng học lại càng mê muội thêm mà thôi!”; thì có thể họ liền tức tối đáp trả: “Mấy người dám ăn nói như thế à? Tôi phải đánh chết mấy người!” Và, như thế là họ sắp phạm giới rồi, có phải vậy không? Thế nhưng, họ không nên làm như thế. Họ cần phải nhịn nhục. Họ phải biết nhẫn nại!

 “Rồi đem các thứ hương hoa, tràng phan, bảo cái, hoặc trăm món đồ ăn thức uống mà chí tâm cúng dường.” Sau khi thiết đặt tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, quý vị hãy thành tâm dâng cúng các loại hương, các loại hoa, cùng tràng phan bảo cái và cả trăm món ăn thức uống. Chí tâm cúng dường cho ai? Đó là cúng dường cho Bồ Tát Quán Thế Âm!

 

Bồ Đề Hải 86

 

KINH VĂN:

Âm: “KỲ VƯƠNG HỰU NĂNG THẤT NHẬT THẤT DẠ, THÂN TÂM TINH TẤN, TỤNG TRÌ NHƯ THỊ ĐÀ-LA-NI THẦN DIỆU CHƯƠNG CÚ, NGOẠI QUỐC OÁN ĐỊCH, TỨC TỰ HÀNG PHỤC, CÁC HOÀN CHÍNH TRỊ, BẤT TƯƠNG NHIỄU NÃO, QUỐC THỔ TƯƠNG THÔNG, TỪ TÂM TƯƠNG HƯỚNG, VƯƠNG TỬ BÁCH QUAN, GIAI HÀNH TRUNG XÍCH, PHI HẬU THỂ NỮ, HIẾU KÍNH HƯỚNG VƯƠNG, CHƯ LONG QUỶ THẦN, ỦNG HỘ KỲ QUỐC, VŨ TRẠCH THUẬN THỜI, QUẢ THỰC PHONG NHIÊU, NHÂN DÂN HOAN LẠC.”

 

Nghĩa: “Nếu vị quốc vương đó lại có thể bảy ngày bảy đêm thân tâm tinh tấn trì tụng chương cú thần diệu Đà La Ni này, thì nước ngoài oán địch sẽ tự hàng phục và trở về lãnh thổ của mình, không quấy nhiễu nhau nữa; đất nước thông thương, thân thiện bang giao; vương tử, bá quan đều hết mực trung thành; phi, hậu, thể nữ thảy đều hiếu kính với vua; chư long, quỷ, thần đều ủng hộ nước đó; mưa gió thuận hòa, hoa quả phong phú dồi dào, nhân dân vui vẻ an lạc.”

 

LƯỢC GIẢNG:

[Đức Phật dạy:] “Nếu vị quốc vương đó lại có thể bảy ngày bảy đêm thân tâm tinh tấn…” Lại nữa, giả sử vị quốc vương đó còn có thể giữ cho cả thân lẫn tâm mình luôn được siêng năng tinh tấn trong suốt bảy ngày bảy đêm; tinh tấn làm việc gì? Đó là tinh tấn “trì tụng chương cú thần diệu Đà-La-Ni này”. Bấy giờ, tình thế sẽ như thế nào?

 

“Thì nước ngoài oán địch sẽ tự hàng phục và trở về lãnh thổ của mình.” Những kẻ ngoại bang thù nghịch đều sẽ tự đầu hàng và rút lui về nước của họ, đồng thời cũng hoàn trả lại đất đai mà họ đã xâm chiếm cho vị quốc vương đó; và đôi bên sẽ “không quấy nhiễu nhau nữa.” Bấy giờ, “đất nước thông thương, thân thiện bang giao.” Nước này giao hảo, kết bạn với nước kia, và đều lấy lòng từ bi mà đối đãi nhau.

 

“Vương tử, bá quan đều hết mực trung thành.” “Trung” tức là hiệu trung, một lòng một dạ trung thành tận tụy, không gian dối. “Phi, hậu, thể nữ thảy đều hiếu kính với vua.” “Phi” là phi tần; “hậu” là hoàng hậu; “thể nữ” là các cung nga, cung nữ phục dịch trong hoàng cung. Đối với vị quốc vương này, thì hoàng hậu, phi tần, cùng các cung nữ đều một lòng tôn kính, phục tùng.

 

“Chư long, quỷ, thần đều ủng hộ nước đó.” Tôi từng nói với quý vị là tôi có mười đệ tử quy y thuộc loài rồng; quý vị không tin ư? Ở đây, “quỷ” là nói chung cho tất cả quỷ thiện và quỷ ác. Nói có quỷ thiện là thế nào? Quý vị xem trong Kinh Địa Tạng có đề cập đến các đại quỷ vương như Chủ Tài Quỷ Vương, Chủ Mạng Quỷ Vương, Đạm Tinh Khí Quỷ Vương, Nhiếp Độc Quỷ Vương—đây chẳng phải toàn là quỷ thiện hay sao? “Thần” thì cũng có thần ác và thần thiện. Trong số các thần ác thì cũng có quỷ ác, và lực lượng của những quỷ ác này to lớn hơn nhiều; và tất cả đều đến ủng hộ đất nước đó.

 

“Mưa gió thuận hòa.” Thế nào gọi là “vũ trạch thuận thời”? Đó là mưa gió đúng mùa, đúng lúc -tới lúc cần mưa thì có mưa xuống, khi không cần có mưa thì trời trong mây tạnh.

 

“Hoa quả phong phú, dồi dào.” “Quả thực” tức là tất cả các loại trái cây, hoa quả; và ở đây cũng có thể nói là “ngũ cốc phong phú, dồi dào.” “Phong nhiêu,” tức là thu hoạch được rất nhiều -chẳng hạn như năm ngoái thu hoạch được 500 pounds (227 kg)  thì năm nay được tới 2.000 pounds (907 kg), tức là bội thu gấp ba, bốn lần. Đó gọi là “phong nhiêu.” Quý vị có hiểu không? Nếu quý vị hiểu rồi thì tôi khỏi phải giảng giải dông dài nữa!

 

“Nhân dân vui vẻ, an lạc.” Quý vị hẳn là đều hiểu tiếng Trung Hoa, cho nên tôi vừa giảng thì quý vị đều bật cười!

 

KINH VĂN:

 

Âm: “HỰU NHƯỢC GIA NỘI NGỘ ĐẠI ÁC BỆNH, BÁCH QUÁI CẠNH KHỞI, QUỶ THẦN TÀ MA HAO LOẠN KỲ GIA, ÁC NHÂN HOÀNH TẠO KHẨU THIỆT, DĨ TƯƠNG MƯU HẠI, THẤT GIA ĐẠI TIỂU NỘI NGOẠI BẤT HÒA GIẢ, THƯỜNG HƯỚNG THIÊN NHÃN ĐẠI BI TƯỢNG TIỀN, THIẾT KỲ ĐÀN TRÀNG, CHÍ TÂM NIỆM QUÁN THẾ ÂM BỒ-TÁT, TỤNG THỬ ĐÀ-LA-NI MÃN KỲ THIÊN BIẾN, NHƯ THƯỢNG ÁC SỰ TẤT GIAI TIÊU DIỆT, VĨNH ĐẮC AN ẨN.”

 

Nghĩa: “Lại nếu trong nhà gặp phải bệnh nặng, trăm điều quái dị khởi lên, quỷ thần tà ma não loạn làm cho cửa nhà sa sút, kẻ ác gieo điều tiếng xấu mưu toan hãm hại, gia đình lớn nhỏ trong ngoài đều bất hòa, thì nên hướng trước

tượng Thiên Nhãn Đại Bi mà thiết đàn tràng, chí tâm niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm và tụng Đà La Ni này đủ một ngàn biến, thì các việc xấu như trên thảy đều tiêu diệt, vĩnh viễn được yên ổn, an vui.”

 

LƯỢC GIẢNG:

 

“Lại nếu trong nhà gặp phải bệnh nặng… Gia nội” tức là bên trong căn nhà, và cũng có nghĩa là người trong gia đình. Giả sử trong nhà của quý vị có người mắc phải một chứng bệnh ngặt nghèo, thầy thuốc nào cũng bó tay, không chữa trị được.

 

Hoặc là trong nhà có “trăm điều quái dị khởi lên, quỷ thần tà ma não loạn làm cho cửa nhà sa sút.” Vì sao gia đình của quý vị lại ra nông nỗi như thế? Đó là do các quỷ thần tà ma ở trong căn nhà ấy gây rối loạn.

 

Hoặc là quý vị bị “kẻ ác gieo điều tiếng xấu.” Có thể có nhiều người xấu bịa đặt chuyện thị phi này nọ, chuyện có nói không, chuyện không nói có, toàn là “không gió mà dậy sóng”, tạo ra điều thất thiệt, “mưu toan hãm hại” quý vị. Giả sử là có những kẻ có lòng dạ ác độc dùng lời lẽ khích bác, ly gián, âm mưu hãm hại quý vị, khiến cho “gia đình lớn nhỏ trong ngoài đều bất hòa.” Bấy giờ, trong gia đình của quý vị, cả người lớn lẫn trẻ con đều không hòa hợp nhau, và có lẽ đối với thân bằng quyến thuộc ở ngoài cũng luôn xích mích, không hòa thuận.

 

Trước tình cảnh ấy, quý vị nên “hướng trước tượng Thiên Nhãn Đại Bi--tức là tượng của Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Quán Thế Âm—mà thiết đàn tràng, chí tâm niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm.” Quý vị nên đem lòng chí thành mà khẩn thiết trì niệm danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm, “và tụng Đà La Ni này—Chú Đại Bi - đủ một ngàn biến, thì tất cả những việc xấu kể trên đều sẽ tiêu trừ, không còn xảy ra nữa, và quý vị sẽ vĩnh viễn được yên ổn, an vui.”

 

Bồ Đề Hải 87

 

KINH VĂN:

Âm: A-NAN BẠCH PHẬT NGÔN: “THẾ TÔN! THỬ CHÚ DANH HÀ? VÂN HÀ THỌ TRÌ?”

PHẬT CÁO A-NAN: “NHƯ THỊ THẦN CHÚ HỮU CHỦNG CHỦNG DANH:

NHẤT DANH QUẢNG ĐẠI VIÊN MÃN.

NHẤT DANH VÔ NGẠI ĐẠI BI.

NHẤT DANH CỨU KHỔ ĐÀ-LA-NI.                

NHẤT DANH DIÊN THỌ ĐÀ-LA-NI.

NHẤT DANH DIỆT ÁC THÚ ĐÀ-LA-NI.

NHẤT DANH PHÁ ÁC NGHIỆP CHƯỚNG ĐÀ-LA-NI.

NHẤT DANH MÃN NGUYỆN ĐÀ-LA-NI.

NHẤT DANH TÙY TÂM TỰ TẠI ĐÀ-LA-NI.

NHẤT DANH TỐC SIÊU THƯỢNG ĐỊA ĐÀ-LA-NI.

NHƯ THỊ THỌ TRÌ.”

 

Nghĩa: A Nan bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Chú này tên gọi là gì? Thọ trì như thế nào?”

Đức Phật bảo A Nan: “Thần chú này có vô số tên gọi:

Một tên là Quảng Đại Viên Mãn,

Một tên là Vô Ngại Đại Bi,

Một tên là Cứu Khổ Đà La Ni,

Một tên là Diên Thọ Đà La Ni,

Một tên là Diệt Ác Thú Đà La Ni,

Một tên là Phá Ác Nghiệp Chướng Đà La Ni,

Một tên là Mãn Nguyện Đà La Ni,

Một tên là Tùy Tâm Tự Tại Đà La Ni,

Một tên là Tốc Siêu Thượng Địa Đà La Ni.

Hãy y như thế mà thọ trì.”

 

LƯỢC GIẢNG:

A Nan bạch Phật rằng… Khi ấy, Tôn giả A Nan thưa với Đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn, chú này tên gọi là gì? Chẳng hay tên của bài chú này là gì?” Quý vị cho rằng trong phần trước ngài A Nan đã nghe Bồ Tát Quán Thế Âm thuyết giảng dông dài như thế mà vẫn chưa biết được tên của bài chú này hay sao? 

“Thọ trì như thế nào? Và chẳng hay chúng con phải tụng niệm, thọ trì bài chú này như thế nào?”

Đức Phật bảo A Nan: “Thần chú này có vô số tên gọi.” Bài chú vi diệu như thế này không phải chỉ có một mà là rất nhiều tên gọi khác nhau. Thí dụ như người này có tên là Steve, lại cũng được gọi là Quả Chiêm; và anh ta còn có một cái tên khác nữa, đó là gì vậy? Còn người kia có tên là Quả Ninh, lại cũng được gọi là Hằng Tịnh--một người có thể có rất nhiều tên gọi khác nhau. Bài chú này cũng vậy, cũng có nhiều tên gọi khác nhau:

1) Một tên là Quảng Đại Viên Mãn. Chú này có một tên là “Quảng Đại Viên Mãn”, tức là vừa rộng lớn lại vừa tròn đầy.

2) Một tên là Vô Ngại Đại Bi. “Vô ngại đại bi” tức là đã không có chỗ chướng ngại mà còn đầy đủ tánh đại bi.

3) Một tên là Cứu Khổ Đà La Ni. “Cứu Khổ Đà La Ni” tức là một loại thần chú tổng trì có công năng cứu giúp tất cả tật bệnh khổ não.

4) Một tên là Diên Thọ Đà La Ni. Nếu có người đang lúc hấp hối mà được quý vị niệm Chú Đại Bi cho, thì người đó sẽ được sống lâu thêm, cho nên chú này còn được gọi là chú tổng trì Trường Mệnh.

5) Một tên là Diệt Ác Thú Đà La Ni. “Diệt ác thú” tức là có công năng tiêu diệt bốn đường ác - địa ngục, ác quỷ, súc sanh và A tu la.

6) Một tên là Phá Ác Nghiệp Chướng Đà La Ni. Chú này có công năng phá trừ tất cả các nghiệp chướng xấu ác. Thế nhưng, quý vị chớ nên cho rằng bởi Chú Đại Bi là Đà La Ni có thể phá trừ các nghiệp ác, bèn niệm chú này rồi tha hồ tạo ác tác nghiệp, thì cũng được phá trừ: “Cho dù mình có gây tạo một chút nghiệp chướng đi chăng nữa thì đã có Chú Đại Bi sẵn sàng giải trừ cho mình. A! Nếu mình mặc sức gây tạo, thì Chú Đại Bi cũng sẽ tận lực phá trừ, giống như ‘phá trận’ vậy.” Chẳng phải như thế đâu!

Những nghiệp chướng xấu ác trước kia của quý vị thì Chú Đại Bi có thể phá giải được; song nay quý vị đã biết rõ rằng nghiệp chướng này đích thị là nghiệp chướng xấu ác, thì lẽ ra quý vị không nên tạo tác nữa mới phải! Nếu nay quý vị còn tiếp tục gây thêm nghiệp chướng xấu ác nữa, thì đừng nói là một cái Đà La Ni, cho dù một vạn cái Đà La Ni cũng không thể nào phá nổi nghiệp chướng xấu ác “biết rõ mà vẫn cố phạm” của quý vị được! Cho nên, quý vị cần phải hiểu rõ điểm này.

7) Một tên là Mãn Nguyện Đà La Ni. Chú này lại có một tên gọi nữa là Mãn Nguyện Đà La Ni. Quý vị trì niệm Chú này thì cầu chi được nấy.

Thí dụ quý vị ao ước: “Tôi muốn được phát tài”, thì quý vị hãy niệm Chú Đại Bi tất sẽ được phát tài. Hoặc quý vị nói: “Tôi muốn được làm quan!”, thì quý vị cũng sẽ được toại nguyện. Hoặc nói rằng: “Tôi vẫn còn muốn nhiều thứ nữa, tôi muốn đến Reno đánh bạc! Thế thì tôi niệm Chú Đại Bi liệu có được linh ứng chăng? Tôi viết cái lottery này sẽ trúng chứ? Viết mười chữ thì trúng được chín chữ, hoặc cả mười chữ; có thể được không?” Điều này thì tôi không biết chắc, tôi không thể bảo đảm được. I don’t guarantee it! Quý vị cầu xin những việc chánh đáng thì tôi bảo đảm; còn nếu cầu xin điều tà vạy thì tôi chẳng thể bảo đảm được!

8) Một tên là Tùy Tâm Tự Tại Đà La Ni. Chú này còn có tên là Tùy Tâm Tự Tại—quý vị trong lòng nghĩ cái gì thì sẽ đạt được cái nấy.

9) Một tên là Tốc Siêu Thượng Địa Đà La Ni. Chú tổng trì này lại còn có tên là Tốc Siêu Thượng Địa - sẽ giúp hành giả vượt lên đến vị trí Thập Địa một cách mau chóng.

"Hãy y như thế mà thọ trì.” Trên đây là một số tên gọi khác nhau của Chú Đại Bi, quý vị nên “nhìn tên mà nghĩ đến nghĩa” (cố danh tư nghĩa), rồi chiếu theo đó mà thọ trì, tu hành.

Trong số các vị sẽ sang Đài Loan cầu giới [Cụ Túc] chuyến này, có một vị đã hỏi tôi: Đến đó [Đài Loan] rồi chúng con có được ăn thịt không?” Quý vị thử đoán xem người nêu thắc mắc đó là ai? Tôi nói cho quý vị biết, đó chính là người đã tới hỏi tôi câu hỏi ấy đấy! Tôi trả lời rằng họ có thể ăn thịt; nhưng phải ăn thứ thịt nào? Phen này là phải ăn “thịt” Lăng Nghiêm!

Một vị khác lại hỏi tôi: “[Đến Đài Loan] con có được phép uống rượu không?” Quý vị đừng thắc mắc là ai hỏi, nói chung là một người thích uống rượu hỏi đấy! Tôi bảo người đó rằng anh ta có thể uống rượu; nhưng phải uống loại rượu nào? Phải uống “rượu” Đại Bi! Mọi người hãy lấy Lăng Nghiêm làm thịt, lấy Đại Bi làm rượu!

Nói thế thì có cần ăn cơm hay không? Cơm thì đương nhiên là phải ăn rồi; thế thì các vị nên ăn thứ cơm nào? Ăn “cơm” Pháp Hoa! Hãy lấy Kinh Pháp Hoa làm cơm để ăn!

Tôi cần căn dặn các vị là lúc ở trên máy bay thì các vị chớ nên bồn chồn lo sợ. Các vị có “thịt Lăng Nghiêm” ăn no nê, có “rượu Đại Bi” uống thỏa thích, có “cơm Pháp Hoa” đầy một bụng—thì không có điều gì phải lo lắng, sợ hãi nữa cả! Chiếc máy bay đó cho dù đáng lẽ phải gặp chuyện rủi ro, thì cũng sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra đâu! Bởi vì các vị đã có ba món bảo bối này bảo vệ, che chở cho mình rồi. Thêm vào đó là nhóm năm người của các vị nữa, thành ra có đến bốn thứ bảo bối lận! Vì thế, các vị chớ nên sợ hãi. Tuy nhiên, nếu các vị hiểu rõ được đạo lý mà tôi đang nói đây thì các vị mới có thể uống thứ rượu này, ăn thứ thịt này, và ăn thứ cơm này; còn nếu chưa hiểu thì hãy đi tham cứu ngay đi!

Comments

Popular posts from this blog