KINH
PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG
ĐÀ RA NI
Hán
dịch: Nước Kế Tân, sa môn Phật Đà Ba Lỵ
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
LỜI TỰA
Đức Như Lai ứng thế, vì muốn cứu vớt các hàm
linh khỏi khổ luân hồi, chứng lên quả Phật, nên mở
cửa phương tiện, nói ra muôn ngàn pháp môn. Kinh Phật
Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn -
là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác
chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám. Các
hàng tứ chúng nên phát tâm trì tụng, tất hiện đời tội
chướng tiêu diệt, phước huệ phát sinh, tương lai sẽ gần gũi chư
Phật ở 10 phương Tịnh Độ.
Trong niên hiệu Nghi Phụng thời Hậu Chu, có vị tăng là Phật Đà Ba Lỵ
từ Tây Thiên Trúc đến Trung Hoa. Trong dịp chiêm lễ thánh
tích ở non Ngũ Đài, ngài gặp một lão ông từ trong núi đi ra, dùng
tiếng Phạn bảo rằng:
"Pháp sư chẳng nài mệt nhọc, từ muôn dặm đến
đây thành tâm đảnh lễ, mong diện kiến đức Văn Thù,
thật đã hết lòng mộ đạo. Nhưng chúng sanh ở Trung
Hoa, đa số tạo nhiều tội nghiệp, hàng xuất gia phần
đông phạm luật nghi, chỉ có kinh Phật Đảnh Tôn
Thắng Đà Ra Ni mới diệt được tất cả tội chướng ấy. Chẳng
hay pháp sư có đem theo kinh đó đến miền này chăng?"
Ngài Phật Đà Ba Lỵ đáp:
"Bần đạo đến đây chỉ vì mục đích đảnh
lễ đức Văn Thù, nên không đem kinh đó theo".
Lão ông nói:
"Đức Đại Thánh Văn Thù hằng có lòng
từ bi muốn cứu độ chúng sanh. Pháp sư đã không đem
kinh ấy theo, tức là không hợp với thánh tâm, dù có gặp đức Văn Thù,
cũng không được phần lợi ích. Vậy ngài nên trở về Tây Vức mang
kinh ấy đến lưu truyền nơi miền Hán độ, để cứu vớt sanh
loại, siêu độ u linh, tức là báo ơn chư Phật, chừng đó quyết
định sẽ gặp Bồ Tát Văn Thù".
Nói xong, bỗng biến mất.
Biết lão ông là đức Văn Thù hóa hiện dạy bảo,
ngài Phật Đà Ba Lỵ mừng thương lẫn lộn, cúi đầu đảnh lễ,
vội vã trở về Tây Trúc. Đến năm Vĩnh Thuận thứ hai, ngài
mới đem kinh đến Trung Hoa, vào triều nội, tâu lên mọi việc. Vua nghe
xong, vui đẹp, sắc cho ngài Nhật Chiếu Tam Tạng và quan tư tân
điển lịnh là Đỗ Hành Khải phiên dịch. Dịch xong, vua đem kinh bản bảo
tàng trong nội, cấm không cho lưu hành và thưởng tặng cao
tăng Phật Đà Ba Lỵ 30 cuốn lụa.
Ngài thương khóc, tâu rằng:
"Bần đạo không kể nguy hiểm thân mạng, từ xa đem
kinh đến đây, vì muốn lợi lạc quần sanh, không nghĩ đến danh
lợi. Xin thánh thượng gia ân cho lại nguyên bản, để các loài hàm
linh cùng được lợi ích!"
Vua dạy lưu kinh phiên dịch, và trả lại Phạn bản cho Tây
Tăng. Ngài Phật Đà Ba Lỵ đem phạn bản đến chùa Tây Minh, tìm được vị
tăng Trung Hoa giỏi phạn ngữ là Thuận Trinh, rồi dâng sớ tâu xin cho
cùng phiên dịch, và cho biên ra nhiều bản để lưu hành. Xong,
ngài Phật Đà Ba Lỵ đem phạn bản đến non Ngũ Đài, vào
hang Kim Cang rồi không thấy trở ra, tương truyền ngài đã được
đức Văn Thù thu nhận vào pháp hội của chư Bồ Tát.
Bởi sự tích trên, nên bút giả nghĩ kinh này có thể lợi
ích cho hàng Phật tử Việt Nam. Theo trong đại tạng, kinh
này có tất cả 9 bản dịch, bút giả lấy bản dịch của ngài Phật Đà Ba Lỵ
làm bản chính, tham chiếu các bản khác của chư vị như: Kim Cang
Trí, Thiện Vô Úy, Địa Bà Ha, Nghĩa Tịnh, Bất Không... bổ
vào những chỗ khuyết. Lại theo Mật tạng, Tôn Thắng chân ngôn còn
có tên là Nhứt Thiết Như Lai Ô-Sắc-Ni-Sá Tối
Thắng Đà Ra Ni. Thần chú này do đức Thế Tôn ở
Đại Thiện Pháp đường nơi cõi Cực Lạc, sau khi nhập Phổ
Chiếu Cát Tường Tam Ma Địa nói ra. Thấy chú văn y
như nhau, bút giả cũng lấy bản Nhứt Thiết Như Lai Ô Sắc Ni
Sá Tổng Trì Kinh làm tài liệu tham chiếu.
Ngoài ra, lại còn có cuốn Phật Đảnh Tôn
Thắng Đà Ra Ni Niệm Tụng Nghi Quỹ Pháp của ngài Bất
Không Tam Tạng dịch. Bút giả nghĩ pháp thức đó dành cho bực lợi
căn chuyên tu về Mật Tông, không thích hợp với phần
đông trình độ hiện nay, nên không dịch ra đây.
Việc làm này có phần nào công đức, xin hồi hướng vãng sanh
Tịnh Độ, cho bốn ân, ba cõi, và pháp giới hữu tình.
USNISĀ (Ô-Sắc-Ni-Sá) dịch
là Phật-đảnh, tướng Vô-kiến-đảnh nơi đầu của đức Phật.
KINH
PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG
ĐÀ RA NI
PHẦN THÔNG TỰ
Tôi nghe như vầy:
Một thời đức Bạc-Già-Phạm , ở tại đạo tràng Măng
Tre, trong vườn Thệ Đa Lâm Cấp Cô Độc, thuộc thành Thất La Phiệt,
cùng với 8 ngàn chúng Tì Kheo câu hội. Các vị ấy đều là bậc Đại A La Hán,
hàng tri thức của quần chúng. Trong đây, những tôn
giả như: Xá Lỵ Phất, Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp, A Na
Luật Đà... làm thượng thủ.
Lại có ba vạn hai ngàn Bồ Tát, đều là bậc trụ nơi hạnh Bất Thối
Chuyển, chánh trí soi sáng tất cả các pháp, không còn ngăn
ngại, vô lượng công đức trang nghiêm, cùng các đại
chúng đồng thời câu hội. Trong ấy, các Bồ
Tát như: Quán Thế Âm Bồ Tát, Đắc Đại Thế Bồ Tát, Mạn
Thù Thất Lỵ Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát,
Thắng Liên Hoa Tạng Bồ Tát, Chấp Kim Cang Bồ Tát, Trì
Địa Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Tịnh Trừ Nhứt Thiết Chướng Bồ Tát...
làm thượng thủ.
Lại có một vạn Phạm thiên vương, do Thiện Tra Phạm Ma thiên
vương, Thiện Kiến thiên vương làm thượng thủ, từ các cõi khác
đến dự hội.
Lại có một vạn hai ngàn vị Đế Thích Thiên vương, cùng với vô
lượng Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca
Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hô Lặc Già, Cưu Bàn Trà, Tỳ Xá
Giá, Nhơn phi nhơn... cũng tập hội.
Bạc-Già-Phạm dịch Tự-tại, Oai-nghiêm, Kiết-tường,
Tôn-quý, Hữu-đức, tức chỉ cho đức Phật.
Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu
La, Khẩn Na La, Ma Hô Lặc Già, Cưu Bàn Trà, Tỳ Xá Giá,
Nhơn phi nhơn...Thiên: hàng trời, Long: rồng, Dạ
xoa: dịch Thiệp tật quỉ loài quỷ bay mau lẹ; Càn
thát bà: dịch Khứu hương nhạc, nhạc thần của Thiên Đế; A
Tu La: dịch Phi Thiên, loài có phước như trời mà đức không bằng
trời; Ca Lâu La: thần kim súy điểu; Khẩn Na La: dịch
Nghi thần, thần ca múa của Thiên Đế, Ma Hô Lặc Già: thần
rắn; Cưu Bàn Trà: Yểm mị quỷ; Tỳ Xá giá: Đạm
tinh khí quỷ; Nhơn Phi Nhơn: loài như người nhưng có sừng
hoặc có cánh khác với người.
PHẦN
BIỆT TỰ
Bấy giờ đức Thế
Tôn đang được bốn chúng vây quanh, cung kính cúng
dường, một lòng chiêm ngưỡng, cầu nghe pháp yếu.
Khi ấy, tại cõi
trời Đao Lợi, có một vị thiên tử tên là Thiện Trụ, ngự tại cung
báu lớn, đang cùng với các thiên nữ dự cuộc âm nhạc ca
múa vui đùa hưởng lạc. Lúc đó, ở thiên giới vào khoảng cuối
đêm, bỗng nhiên giữa hư không có tiếng gọi bảo:
"Thiện Trụ thiên
tử! Bảy hôm nữa, ông sẽ hết phước trời, xả báo thân, đọa xuống
cõi Diêm Phù Đề, 7 lần làm cầm thú, thường ăn đồ nhơ uế. Kế đó lại
đọa vào địa ngục, chịu đủ các sự khổ trải qua nhiều kiếp mới
được làm người. Tuy được thân người, nhưng lại đen lùn, thô xấu, mù cả đôi mắt,
các căn không đủ, hơi miệng thường hôi hám, nghèo khó hèn hạ, hằng
thiếu ăn mặc, mọi người đều gớm ghét, lánh xa !”
Thiện Trụ thiên tử nghe lời ấy rồi, kinh hoàng tột độ, lông
tóc đều dựng đứng, ôm lòng sầu muộn, ông vội đem hương, hoa cùng các
thứ cúng dường, đến chỗ Thiên đế quì xuống, dâng lễ, than khóc
thuật lại việc trên, và thưa:
"Nay tôi tâm
tư bối rối, mê loạn. Không biết phải làm thế nào? Cúi xin Thiên
Đế xót thương, cứu vớt tôi ra khỏi vòng khổ độc!"
Thích Đề Hoàn
Nhơn nghe xong, rất kinh ngạc, tự suy nghĩ:
"Thiện
Trụ Thiên Tử đời trước tu phước gì, được sanh lên cõi
trời hưởng sự vui thắng diệu nhiều năm? Lại kiếp xưa tạo nghiệp
nhân chi mà sau khi hết thiên phước, phải chịu 7 lần làm cầm thú, rồi
đọa vào địa ngục, khi được làm thân người, đôi mắt mù lòa, thọ đủ
điều xấu ác?"
Nghĩ như thế rồi,
liền nhiếp tâm vào định, dùng thiên nhãn xem:
Thấy Thiện Trụ
thiên tử ở cõi trời mạng chung, liền đọa làm thân heo, hết thân
heo thọ thân chó, hết thân chó thọ thân chồn, hết thân chồn thọ thân khỉ, hết
thân khỉ thọ thân rắn độc, hết thân rắn thọ thân kên kên, hết thân kên kên
thọ thân chim quạ. Trong 7 kiếp làm cầm thú ấy, thường ăn những đồ
nhơ uế. Khi thấy biết như thế, ngài cũng lo lắng đau xót giùm
cho Thiện Trụ thiên tử. Thiên đế lại suy nghĩ:
“Thiên nhãn của ta
chỉ thấy biết một ít phần, không thể hiểu được những nghiệp nhân sâu
xa. Duy đức Như Lai là bậc Chánh Biến Tri, mới có thể thấu suốt
tất cả nhân quả thiện, ác. Duy đức Thế Tôn là đấng Đại
Từ, mới có thể cứu vớt Thiện Trụ thiên tử khỏi vòng khổ độc. Ta nên
đến cầu thỉnh Như Lai về việc này!"
Nghĩ đoạn, ngài liền
suất lãnh Thiện Trụ thiên tử cùng chư thiên, đem
theo các thứ tràng hoa, huơng lạ, anh lạc, thiên y, bay
xuống vườn Thệ Đa Lâm Cấp Cô Độc.
Bấy giờ ở cõi nhân gian, thời khắc vào khoảng đầu
hôm, nhằm lúc chư Bồ Tát, thanh văn, thiên long bát
bộ, tứ chúng như trên đang vân tập. Khi đến nơi, Thiên
đế hướng dẫn Thiện Trụ và thiên chúng đảnh lễ Phật, đi
nhiễu quanh 7 vòng, dâng hiến lễ cúng duờng. Pháp sự đã
xong, Thích Đề Hoàn Nhơn quì trước Như Lai bạch lại việc
trên, và thưa thỉnh rằng:
"Bạch đức Thế Tôn! Thiện Trụ thiên tử đời
trước tu phước chi, mà hưởng sự vui nơi cõi trời trải nhiều
thời gian? Lại kiếp xưa tạo nhân gì, sau khi hết phước phải đọa làm
thân cầm thú 7 phen, ăn đồ bất tịnh, rồi thọ sự khổ
nơi địa ngục, sự hèn xấu nơi cõi người? Và do phước nhân nào,
cảm được giữa hư không có tiếng mách bảo? Xin đức Như
Lai vì chúng con và đại hội mà nói rõ nhân duyên, lại cúi
xin đấng Thiên Nhơn Sư mở lượng từ bi, cứu vớt cho Thiện
Trụ thiên tử được thoát vòng khổ ách".
KINH
PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG
ĐÀ RA NI
PHẦN
CHÁNH TÔNG
Khi ấy, đức Như
Lai mỉm cười, từ nơi đảnh môn, phóng ánh sáng ngũ sắc rộng lớn,
soi khắp 10 phương cõi Phật. Quang minh ấy ánh chiếu lẫn nhau,
rồi uyển chuyển quay về nhiễu quanh bên hữu Phật ba vòng, lại trở vào
miệng đấng Điều Ngự. Đức Thế Tôn thu nhiếp quang
minh xong, bảo trời Đế Thích rằng:
"Lành
thay, thiện nam tử! Ông khéo vì Thiện Trụ thiên
tử và đại chúng, hỏi nhân duyên thiện ác tiền sanh.
Lại hay vì chúng hữu tình hiện tại và đời sau, mà thưa
thỉnh ta nói pháp môn cứu khổ. Lắng nghe! Ta sẽ vì các ông giải
thuyết rành rẽ:
- Này thiện nam tử! Cách vô lượng kiếp về trước,
có đức Phật ra đời hiệu là Tỳ Bà Thi Như Lai, Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian
Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư,
Phật, Thế Tôn. Đức Phật ấy sau khi hóa duyên đã mãn,
vào Niết Bàn.
Trong thời tượng
pháp của ngài, có một quốc gia tên Ba La Nại, trong nước đó
có người Bà La Môn nghèo, chỉ sanh được một con trai rồi qua đời sớm.
Cậu bé ở với mẹ đến khi khôn lớn, được giao cho việc nông tác ngoài đồng. Bà mẹ
ở nhà, tảo tần lo thức ăn, mỗi ngày đem ra ruộng cho con. Một hôm, cơm
nước đưa đến trễ, đứa con đói khát, sanh lòng hờn giận, dùng
lời ác độc mắng rằng:
"Mẹ tôi còn thua
loài súc sanh! Tôi thấy mấy con: heo, chó, chồn, khỉ, rắn, kên kên, quạ, còn
biết thương lo cho con của nó. Tại sao bà để cho tôi đói khát mà
không đem cơm nước đến?"
Do lòng đợi
chờ hờn giận, đứa con nói như thế ba lần. Giây lát bà mẹ với dáng
điệu vội vã đem cơm nước tới, và nói nhiều lời an ủi khiến
cho con vui mừng hết cơn buồn giận. Đứa con vừa ngồi xuống sắp dùng
cơm, bỗng thấy giữa hư không có vị Bích Chi Phật, hình
tướng sa môn, bay từ phương Nam qua phương bắc. Người con thấy rồi, sanh
lòng kính ngưỡng, đứng lên chắp tay cúi đầu đảnh lễ, thỉnh
vị Bích Chi Phật giáng lâm.
Vị Bích-Chi
Phật nhận lời thỉnh, từ từ đáp xuống. Đứa con vui mừng, trải tranh
trắng làm tòa ngồi, dâng hiến hoa sạch đẹp, giảm phần ăn của mình,
đem cúng dường vị Sa môn. Sau khi thọ thực xong, Bích Chi
Phật lại vì nói pháp yếu khiến cho được vui mừng.
Về sau người con xuất gia, chư tăng cử cho làm chức Tri
Sự. Lúc ấy có người Bà La Môn xây cất tăng xá vừa xong,
ngày khánh thành khách tăng hội đến, lại có thí chủ đem nhiều tô
du và sữa đặc cúng dường. Ông Tri Sự hiềm khách tăng làm
phiền rộn, nên không đem tô du và sữa ra thết đãi. Mấy vị khách tăng
hỏi:
"Những thức
ăn đó là của đàn việt cúng dường hiện tiền tăng, sao
không thấy dọn ra?"
Ông Tri
Sự tánh nóng vội, liền cả tiếng mắng rằng:
"Bộ mấy ông
đui mù hết sao? Có tô du và sữa đâu mà bảo tôi cất giấu? Nếu muốn đòi
thêm, chỉ có phẩn và nước tiểu cho các ông ăn mà thôi!"
Đức Phật bảo Đế Thích:
“-Đứa con của người Bà La môn nghèo đó là Thiện Trụ thiên
tử hiện nay. Do kiếp trước hờn giận, dùng lời ác gọi 7 tên
loài cầm thú mắng mẹ, nên phải chịu 7 phen làm cầm thú. Bởi khi
làm Tri Sự thốt ra những lời nhơ uế mắng chư tăng,
nên nghiệp cảm thường ăn đồ bất tịnh. Do bỏn xẻn giữ
riêng thức ăn của hiện tiền tăng nên bị quả báo địa
ngục và chịu nghèo hèn thô xấu trong kiếp người. Bởi mắng chư
tăng là đui mù nên bảy trăm đời phải bị mù đôi mắt, sống trong
cảnh tối tăm chịu nhiều khổ não. Nên biết những tội
nghiệp như thế, đã có nhân, tất phải trả quả, ảnh
hưởng không tiêu mất.
-Lại nữa Thiên Đế! Thiện Trụ thiên tử được hưởng sự vui thắng diệu
ở cõi trời, là do kiếp trước trải tòa, dâng hoa, cúng
dường thức ăn cho vị Bích Chi Phật, và nhờ sức ảnh
hưởng của sự nghe chánh pháp. Lại do đời trước chắp
tay ngửa lên hư không, hết lòng kính thỉnh, cúi
đầu đảnh lễ vị Bích Chi Phật, bởi công đức ấy nên được
nghe giữa hư không có tiếng mách bảo cho biết trước. Đó là
tiếng vị thần giữ cung điện của Thiện Trụ thiên tử vậy!
Khi ấy, Thiện Trụ thiên tử nghe lời Phật dạy, biết nghiệp mình
đều có túc nhân, hết sức ăn năn tự trách. Ông gieo
mình đảnh lễ trước Phật, tỏ bày tội lỗi, cầu
xin sám hối, thương khóc, sa nước mắt như mưa, huyết lệ rơi ứ đọng nơi
chiếc khăn trong giỏ đựng hoa, chết ngất hồi lâu mới tỉnh lại.
Đức Phật bảo Đế Thích và Thiện Trụ thiên tử:
- Trong 10 nghiệp ác, khẩu nghiệp rất mãnh liệt, phải biết lời
ác còn quá hơn lửa dữ. Lửa dữ chỉ đốt tiêu tài sản của
báu ở thế gian. Lửa giận ác khẩu chẳng những đốt
hết Thất thánh tài và tất cả công đức xuất thế mà
còn chiêu cảm ác báo về sau. Như Thiện Trụ chỉ vì nóng
giận mắng mẹ và chư tăng, mà tổn bớt phước trời, phải chịu thân cầm
thú và địa ngục.
Cho nên, đối với cha mẹ và chư tăng, lẽ ưng tôn
trọng cung kính cúng dường, dùng lời dịu dàng khen ngợi,
thường nghĩ đến ân đức, chớ không nên khinh hủy. Lòng từ ái giữa
trần gian chỉ có cha mẹ, ruộng phước trong ba
đời không chi hơn chúng tăng. Các bậc chân tăng hiền thánh,
nếu cúng dường thì công đức không mất. Như tiến thêm,
muốn cầu pháp xuất thế, lại có thể thành đạo. Đâu nên đối
với chúng tăng vội thốt lời khinh hủy!
Còn cha
mẹ công sanh dưỡng rất khó nhọc, 10 tháng cưu mang khổ nặng, 3
năm bú sữa, mớm cơm. Trải đủ sự lo lắng gian lao, nuôi con khôn lớn,
dạy dỗ, cho học hành, mong con được thành lập, tài đức hơn
người. Nếu con xuất gia, lại mong cho con đắc đạo, thoát vòng
sanh tử. Ân niệm ấy cao rộng như biển trời, khó đền trả. Vì thế, ta đã
bảo A Nan:
-Nếu có người vai bên
trái cõng cha, vai bên mặt cõng mẹ, đi quanh núi Tu Di trăm ngàn
vòng, huyết chảy ngập 2 bàn chân, còn chưa thể báo công ơn sanh
dưỡng, huống chi lại khởi niệm hờn giận, buông lời khinh mắng ư!
- Này Thiên Đế! Thiện Trụ thiên tử nay do thấy ta, chí
tâm sám hối, nên đạo nhãn trong sáng, tội cũng trừ diệt.”
Đức Thế Tôn lại nhìn Thiện Trụ Thiên Tử an ủi bảo rằng:
"-Ông nên chớ quá
lo buồn thương khóc. Ta có pháp môn tên là Phật Đảnh Tôn
Thắng Đà Ra Ni, ông trì chú này tất sẽ thoát
khỏi vòng khổ ách. Môn đà ra ni đây, vô lượng hằng
sa chư Phật đời quá khứ đã nói, ta nay cũng sẽ diễn nói. Trong
các thần chú về Phật Đảnh, môn đà ra ni này rất tối tôn tối
thắng, hay trừ tất cả sự khổ não trong nẻo luân hồi của tất
cả chúng sanh!"
Thích Đề Hoàn Nhơn nghe Phật nói rất vui mừng, một lòng khát
ngưỡng, thưa rằng:
"-Bạch đức Thế Tôn!
Cúi xin Như Lai thương nghĩ đến Thiện Trụ và bọn chúng con,
cũng vì chúng sanh đời mạt pháp về sau, tuyên
thuyết môn Phật Đảnh Đà Ra Ni. Chúng con sẽ tuân
hành và nguyện cho tất cả các loài hữu tình đều thoát
khỏi sự khổ tam đồ Bát nạn !"
Bấy giờ đức Như Lai vì Thiên Đế, Thiện Trụ thiên tử, và 4
bộ chúng, và nghĩ thương chúng sanh đời mạt pháp về sau,
dùng giọng phạm âm trong sáng, thanh diệu hòa nhã như
tiếng chim Ca Lăng Tần Già, thuyết chú rằng:
PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG ĐÀ RA NI
Nam-mô ba ga pha tê. Sạt
hoa tát răn, lô ky da. Bơ ra di, vi ti sắc tra da. Bút đà da, ba ga pha tê. Tát
đi da tha !
Um ! Bút rum, bút rum, bút rum. Suýt đà da, Suýt đà da. Vi
suýt đà da, vi suýt đà da. Á sá ma, sá ma. Sa măn tá, phạ hoa sát. Sa phả ra
na, ga ti, ga gạ na. Soa phạ hoa, vi suýt đi. Á vi chuân da, du măn. Sạt hoa
tát thá ga đá. Sú ga da. Phạ ra, phạ ca nã. A mi rị tá, bi sá cu. Ma ha muýt đơ
ra, măn đa ra, ba na.
Um ! Á hạ ra, á hạ ra. A du săn, đà ra ni. Suýt đà đa, suýt
đà đa. Ga ga na, xoa phạ hoa, vi suýt đi. U sắc ni sá, vi ca da, vi suýt đi. Sá
hạ sa ra, ra sa mi, săn tô ni tê. Sá ra hoa, tát thá ga đa. A hoa lô ki ni. Sạt
hoa tát thá ga đa, mát tê. Sá tra, bá ra mi tá. Ba rị, bủ ra ni. Na sá, bủ mi
bơ ra, đi sắc si tê. Sá ra hoa, tát thá ga đa, hất rị đà da. Đi sắc sá na. Đi
sắc si tê.
Um ! Muýt đơ ri, muýt đơ ri, ma ha muýt đơ ri. Hoa di ra, ca
da. Săn hạ đa nã, vi suýt đi. Sá ra hoa, ca ma, phạ ra na, vi suýt đi. Ba ra,
đu ri ca ti, bi ri, vi suýt đi. Bơ ra ti na, hoa ra đá da, a dục suýt đi. Sa ma
dã, đi sắc sá na, đi sắc si tê.
Um ! Ma ni, ma ni, mạ hạ ma ni. Á ma ni, á ma ni. Vĩ ma ni,
vĩ ma ni, mạ hạ vĩ ma ni. Mát đi, mát đi, mạ hạ mát đi. Tát thá đá, bủ đa. Cu
thi, vi ri suýt đi. Vĩ sa phổ ra, bút đi, vi suýt đi.
Um ! Hi hi. Dá ra, dá ra. Vĩ dá ra, vĩ dá ra. Sa ma ra, sa ma
ra. Sa phạ ra, sa phạ ra. Sá ra phạ, bút đa. Đi sắc sá na. Đi sắc si tê. Suýt
đi, suýt đi. Họa di ri, họa di ri, mạ hạ họa di ri. Á họa di ri. Họa di ra, gạ
bi. Dá ra, gạ bi. Vĩ da ra, gạ bi. Họa di ra, rít họa lã, gạ bi. Họa di rô, na
ga tê. Họa di rô, na bà vê. Họa di ra, sam bà vê. Họa di rô, họa di rị na. Họa
di rảm, hoa phạ, đô mạ mạ. Sá rị rảm, sá ra phạ, sát ta phạ năng. Tả ca da, bi
ri, vi suýt đi. Sất da, hoa phạ, đô mi, sát na. Sá ra phạ, ga ti, bi rị suýt
đi. Sá ra phạ, tát thá ga đa, sất da mi. Sá ma, sa phạ, sát dăn tu. Sạt hoa,
tát thá ga đa. Sá ma, sá phạ sa, đi sắc si tê.
Um ! Sất đi da, sất đi da. Bút đi da, bút đi da. Vi bút đi
da, vi bút đi da. Bồ đà da, bồ đà da. Vi bồ đà da, vi bồ đà da. Mô ca da, mô ca
da. Vi mô ca da, vi mô ca da. Suýt đà da, suýt đà đa. Vi suýt đà da, vi suýt đà
da. Sa măn tá, tát bi ri, mô ca da. Sa măn đá đa, sa mi, bi ri suýt đi. Sá ra
phạ, tát thá ga đá, sam ma da, hất rị đà da. Đi sắc sá na, đi sắc si tê.
Um ! Muýt đơ ri, muýt đơ ri, mạ hạ muýt đơ ra. Mạn đà ra, bá na. Đi
sắc si tê. Sóa ha .
Thuyết chú
xong, đức Phật bảo:
“- Này Thiên đế! Môn Như Lai Quán Đảnh Thanh Tịnh Chư
Thú Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni này tám mươi tám câu
chi trăm ngàn hằng sa chư Phật đã tuyên thuyết, và nghiêm
mật thủ hộ, tùy hỉ ngợi khen. Tất cả Như Lai đều
đồng ấn khả.
Nếu có Tì kheo, tì kheo
ni, thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào thọ
trì hoặc đọc tụng, do công đức ấy, những tội ngũ
nghịch, thập ác trong trăm ngàn muôn kiếp đều được tiêu diệt,
sẽ chứng quả A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Kẻ ấy trong hiện
tại sẽ được túc mạng trí, rồi sanh từ cõi trời này
đến cõi trời khác, từ cõi Phật này đến cõi
Phật khác.
Kẻ ấy sẽ được
chư Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Thế
Chí xoa đầu thọ ký, thường ở nơi đạo tràng, nghe hiểu
và thọ trì chánh pháp. Kẻ ấy 3 nghiệp thân, ngữ, ý hằng
thanh tịnh, tâm an vui, thân khổ dứt trừ, được những xúc
giác nhẹ lành, thọ mạng tăng thêm, không bị hoạnh tử.
Kẻ ấy sẽ được chư
thiên thần hộ vệ, chư Bồ Tát từ ái, chư Phật hệ niệm.
Người thọ trì chú này sẽ đến cõi Địa ngục, ngạ
quỷ, Diêm Ma vương đọc tụng, các tội phạm nơi đó đều được
giải thoát, cảnh giới trống rỗng, các cung trời, cung điện BồTát, cung
điện cõi Phật đều mở cửa rước người thọ trì vào.
- Tại sao thế? Bởi môn đà ra ni này hay trừ sạch tội ngũ nghịch, thập
ác của chúng sanh.
-Hay cứu tất cả
sự khổ nạn trong cảnh Diêm Ma, bàng sanh, ngạ
quỷ, địa ngục, hay độ thoát tất cả chúng sanh nghiệp
dày phước mỏng, nghèo nàn, hèn hạ, đau bịnh, tàn tật, yểu thọ, xấu
xa, câm ngọng, đui điếc.
-Hay cứu vớt các
loại A Tu La, Dạ Xoa, La Sát, Phú Đơn Na, Ca
Tra Phú Đơn Na , các thân quỷ thần…
-Cho
đến hay độ thoát các loài thủy tộc, phi cầm, tẩu thú, rắn rết,
ruồi muỗi, côn trùng. Các chúng sanh ấy tùy phận sẽ được sanh lên
các cảnh giới an lành, và lần lượt đều được chứng
quả giải thoát.
-Này Thiên Đế! Nếu có người thọ trì chú này, từ kiếp hiện
tại trở về sau, vĩnh viễn lìa khỏi ác đạo, thường sanh
trong dòng quý tộc ở cõi người, hoặc sanh lên cõi
trời, cho đến được cùng 10 phương chư Phật ở một chỗ, cùng
chư Bồ Tát làm bạn lành, và kết cuộc sẽ chứng
quả Vô Thượng Đẳng Giác.
-Này Thiên Đế! Môn Phật Đảnh Tôn Thắng đà ra ni của ta đây có
đủ thần lực uy thế, công đức rộng lớn như mặt
trời kiết tường, như châu ma ni trong sạch sáng suốt, không
bợn nhơ, tùy ở chỗ nào phóng ánh quang minh làm sáng sạch nơi đó. Lại
nữa, như 7 báu thù thắng ở thế gian, tất cả hàng vua quan dân
chúng đều quý trọng ưa thích, nhìn không chán. Môn đà ra ni
này cũng thế, nếu thọ trì đọc tụng, biên chép, hoặc cúng
dường, kẻ ấy sẽ được vô lượng công đức, tất cả thiên, long
bát bộ đều kính ưa, quý trọng.
-Này Thiên Đế! Hàng vua quan tứ chúng nếu biên chép đà ra ni này để
trong tháp 7 báu, nơi bảo tòa sư tử, nơi tháp ngã tư đường, hoặc nơi
đầu phướn cao, lại dùng các thứ hoa, hương, anh lạc, y
phục, thức ăn uống, thuốc men cúng dường, kẻ ấy công đức vô
lượng vô biên, phước trí không thể tính kể.
Kẻ ấy là đích tử của
Phật, là Bồ Tát Ma Ha Tát, vì cứu vớt được vô lượng chúng
sanh đi qua đi lại nơi đó. Nếu có chúng sanh nào phạm
tội tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác, các trọng giới và tất cả tội
nặng, ưng đọa tam đồ thọ khổ mà đi ngang qua tháp hoặc phướn có để đà
ra ni này, được một điểm bụi hay một chút gió từ tháp phướn ấy dính nhiễm đến
thân mình, hoặc được bóng tháp phướn che thì tất cả tội nặng đều tiêu trừ,
sanh về cõi trời hưởng sự vui thắng diệu, hoặc tùy duyên sanh
về Tịnh Độ.
Kẻ nào thường thọ trì đà ra ni này khi sắp tụng niệm dùng
nước rửa tay, nước đó rơi xuống đất rưới nhằm các loài trùng kiến, các vật loại
ấy đều được nhờ ảnh hưởng công đức sanh lên cõi trời. Cho
nên các hàng Tì Kheo, Tì Kheo Ni, thiện nam, tín
nữ nếu trai giới thanh tịnh, sáu thời thọ trì đà ra ni
này, thì các tội tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác cùng tất cả các
tội nặng trong ba đời thảy đều được tiêu diệt, được chư
Phật Bồ Tát xoa đầu thọ ký.
Bấy giờ đã quá nửa đêm, Diêm Ma La Vương, Hộ Thế Tứ Thiên
Vương, Đao Lợi Thiên Vương, Dạ Ma Thiên Vương, Đâu
Suất Đà Thiên Vương, Hóa Lạc thiên vương, Tha Hóa Tự Tại
Thiên vương, Phạm Thiên Vương, Đại Phạm Thiên Vương... suất
lãnh quyến thuộc trăm ngàn muôn ức, đem theo hương, hoa và
các thứ trang nghiêm, đến nhiễu quanh bên hữu Phật 7 vòng, đảnh
lễ nơi chân, rồi hiến dâng thức cúng dường. Lễ kính đã
xong, lại thưa thỉnh rằng:
“- Bạch đức Thế Tôn! Chúng con nghe Như Lai diễn
thuyết môn Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni nên đến đây xin
thỉnh thọ và tùy thuận lời dạy mà thủ hộ. Cúi xin
đấng Thiên Nhơn Sư vì chúng con mà nói các pháp
yếu về thần chú này, để cho sự thọ trì của chúng con
được thông suốt và thành tựu.”
Đức Phật bảo vua Diêm Ma La và các vị thiên vương:
“- Lắng nghe! Ta sẽ vì các ông mà giải thuyết:
* Nếu có chúng sanh nào bị khổ nạn, tội chướng cực
nặng, không ai cứu hộ, nên chọn ngày trăng sáng, tắm gội, mặc y
phục sạch sẽ, thọ bát quan trai giới, quỳ trước tượng
Phật tụng đà ra ni này 1.080 biến thì tất cả tội nghiệp, chướng
nạn đều tiêu diệt. Kẻ ấy sẽ được thanh tịnh giải thoát,
được môn Tổng Trì Đà Ra Ni, biện tài vô ngại.
* Nếu kẻ nào tuy chưa trì tụng, mà chỉ nghe âm thanh của đà ra ni này
lọt vào tai, tức liền thành hạt giống Phật. Ví như một
chút kim cang rớt xuống đất, tất lần lượt xuyên lọt đến
nơi bản tế mới dừng, đất tuy dày không thể làm trở ngại. Thần
chú này cũng thế, khi đã lọt vào tai, liền huân tập khiến
cho lần lần thành quả chánh giác, phiền não tuy nặng cũng
không thể ngăn che. Dù kẻ ấy bị đọa vào cõi Địa Ngục, Ngạ
quỉ, bàng sanh cũng không bị nghiệp báo làm cho hạt
giống đó tiêu mất, mà còn nương sức thần chú lần lượt tiến
tu cho đến khi thành Phật.
* Nếu chúng sanh nào một phen nghe được Đà Ra Ni này, qua
kiếp hiện tại sẽ không còn bị các tật bịnh và các sự khổ não,
cũng không còn thọ thân bào thai, tùy theo chỗ hóa
sanh hiện nơi hoa sen. Từ đó về sau, ngũ nhãn lần
lần thanh tịnh, được túc mạng trí, kiết sử tiêu trừ,
sẽ chứng quả vô thượng đẳng giác.
* Nếu có kẻ nào mới chết, hoặc chết đã lâu, có người tụng 21 biến đà ra ni
này vào một nắm đất hoặc cát, rải lên thi hài, kẻ ấy sẽ được sanh về
10 phương Tịnh Độ. Như người chết thần thức đã bị đọa
vào địa ngục, ngạ quỉ, bàng sanh, khi đất cát ấy dính
vào hài cốt, cũng được thoát khỏi ác thú, sanh lên cõi
trời.
* Nếu chúng sanh nào mỗi ngày tụng chú này 21 biến, ưng
tiêu được sự cúng dường rộng lớn của tất cả thế gian, khi
xả báo thân sẽ sanh về thế giới Cực Lạc, kẻ nào thường
niệm tụng sẽ được tăng thọ mạng, hưởng sự vui thù thắng,
tương lai sanh về 10 phương Tịnh Độ, nghe pháp mầu,
được thọ ký, ánh sáng nơi thân chiếu tất cả cõi Phật, và
chứng Đại Niết Bàn.
* Nếu muốn được oai lực tự tại, hành giả dùng các thứ bột như
bột nếp, bột gạo v.v.. nắn thành hình người để 8 phương
hướng nơi đàn tràng, ngày đêm đối tám phương mà tụng chú, tất cả
sẽ được như ý.
* Nếu nước lụt dâng, hướng về phương đó tụng chân ngôn này 108
biến cầu nguyện, thì nước sẽ rút lui.
* Nếu bị nạn vua, nạn quan, nạn binh, nạn giặc cướp, nạn khẩu
thiệt, tụng chú này 21 biến vào năm thứ nước thơm, đem rưới trên
đảnh Phật, các nạn sẽ tiêu diệt.
* Nếu chúng sanh nào tướng mạng yểu, muốn cầu sống lâu, nên chọn ngày
trăng sáng, trai giới, tắm gội, mặc y phục sạch, tụng
chú này đủ 1.080 biến, sẽ được trường thọ, tất cả tội
chướng đều trừ diệt.
* Nếu có người tụng chú này một biến vào lỗ tai của bất kỳ
loài cầm thú nào, thì sanh loại ấy kiếp đó không còn thọ
thân cầm thú, dù nó có nghiệp nặng sẽ bị đọa vào địa ngục,
cũng được thoát ly.
* Nếu kẻ nào bị bịnh trầm trọng, chịu nhiều đau khổ, được nghe đà ra
ni này, sẽ lìa bịnh khổ, tội chướng tiêu diệt. Cho
đến các chúng sanh trong bốn loài nghe được chú
này đều xả bịnh khổ, lìa thân bào thai, hóa
sanh nơi hoa sen, tùy theo chỗ sanh, nhớ biết đời trước
không quên mất.
* Nếu có chúng sanh nào vừa mới khôn lớn, đã tạo các thứ tội tứ
trọng, ngũ nghịch, thập ác, cho đến lúc tuổi già,
tự suy nghĩ biết mình do nghiệp ác này sau
khi mãn phần sẽ đọa vào địa ngục A Tỳ, chịu sự khổ
lớn trải qua nhiều kiếp, rồi xoay vần luân hồi trong 3
đường ác không ai cứu vớt. Người ấy nên chọn ngày rằm, tắm gội mặc y
phục tinh khiết, dùng cái bát bằng vàng, bạc hoặc đồng, lượng chứa
ước một thăng, đựng nước trong sạch để trước tượng
Phật, thọ giới Bồ Tát, trì trai thanh tịnh. Nơi đàn
tràng, mình đứng ở phương Đông hướng về tượng Phật ở phương Tây, đảnh
lễ chí thành sám hối. Rồi tụng đà ra ni này 1.080 biến giữa chừng
không gián đoạn, kế đó dùng nước ấy rưới bốn phương và trên dưới, nguyện
cho tất cả đồng được thanh tịnh. Làm phép này xong, tất cả tội
chướng đều được tiêu diệt, thoát khỏi nghiệp báo địa
ngục tam đồ, vua Diêm Ma La buông tha, thần Tư Mạng vui đẹp,
không sanh giận trách, trở lại chắp tay cung kính, tùy
hỉ ngợi khen công đức.
* Nếu muốn cứu độ người tội nặng, nên chọn ngày rằm, tụng
chú này vào mật hoặc sữa 1.080 biến, rồi cho người đó ăn. Làm như thế,
đương nhơn sẽ tiêu trừ tội chướng sanh về cõi lành, lần
lượt tiến tu, chứng quả vô thượng đẳng giác.
* Nếu tụng 21 biến chân ngôn này gia trì vào tăm xỉa răng,
rồi đem dùng có thể trừ bịnh đau răng, được mạnh khỏe, thông
minh, trường thọ.
* Nếu muốn cứu độ tội khổ của loài súc sanh, nên gia
trì chú này vào cát hoặc đất vàng 21 biến, rồi rải trên mình chúng và bốn
phương, tội chướng của chúng nó sẽ tiêu diệt.
* Nếu có chúng sanh nào muốn được phước đức đầy đủ,
muốn cầu tài bảo xứng ý, muốn cứu hộ mình và người nên khởi
lòng lành, mỗi ngày phát nguyện sám hối, đối trước tượng
Phật, kiết ấn tụng chú này bảy biến, tâm không tán
loạn, mắt nhìn tượng Phật không di động, rồi đem công
đức ấy hồi thí cho tất cả chúng sanh. Tác pháp và
có tâm lành như thế, quyết định sẽ được như nguyện, tăng phước
lộc trong hiện tại, cho đến cả những đời sau.
* Nếu hành giả ở nơi đàn tràng mỗi ngày ba thời, mỗi
thời tụng chú này 21 biến gia trì vào chén nước sạch, rồi
dùng tâm trân trọng bưng chén nước uống. Làm như thế sẽ tiêu
trừ các bệnh, sống lâu trăm tuổi, giải mọi oán kết, tiếng nói thanh
diệu, biện tài thông suốt, mỗi đời thường được Túc Mạng Thông,
nhớ biết tiền kiếp. Nếu đem chén nước ấy rưới trong phòng nhà, cho
đến chỗ chuồng trâu, ngựa, thì nơi đó sẽ được oai lực của chân
ngôn giữ gìn an ổn, trừ các nạn: la sát, rắn, rồng. Như đem chén
nước ấy, miệng tụng chú rưới trên đảnh người bịnh và cho bịnh nhơn
uống, các thứ bịnh nặng sẽ tiêu trừ.
* Nếu muốn tiêu trừ các tai chướng, nên dùng vải lụa vụn năm sắc, kết
làm cây phất trần. Kế đó tụng chú nơi cây phất, quét bụi
nơi tượng Phật và kinh. Thường làm như thế, chướng nạn của
mình sẽ tiêu, mà tội nghiệp của chúng sanh cũng
được trừ diệt.
* Nếu bị nhiều khẩu thiệt, tai tiếng phát khởi, nên dùng châu sa hòa với
bạch mật, hoặc đường cát trắng, tụng chú vào đó 21 biến, rồi đem thoa
vào môi 100 tượng Phật. Làm như thế khẩu thiệt, tai
tiếng sẽ tiêu trừ.
* Nếu vợ chồng chán ghét nhau, muốn được hòa thuận, tụng
chú vào vải hay lụa 21 biến, đem may áo cho chồng hoặc vợ mặc, làm như
thế, vợ chồng sẽ hòa thuận.
* Nếu người nam hay nữ bị ma quỉ khuấy rối, hoặc phần âm yêu
đắm, quyến luyến không tha, nên giữ chánh
niệm vừa tụng chú vừa xoa khắp mình nạn nhân, kế đó lấy tay vỗ
vào thân, ma quỉ liền bỏ chạy.
* Nếu người nữ không có ai đến cưới hỏi, nên dùng muối tốt sạch, tụng
chú vào đó 108 biến, rồi đem cúng dường hiện tiền tăng, tất
sẽ được như ý.
* Nếu chỗ ở có quỷ thần dữ khuấy rối, nên tụng
chú vào thức ăn 21 biến rồi đem cúng thí cho ăn. Trong khi ấy
lại nói: "Nay tôi cúng thí cho các vị, như không làm tổn
hại chúng sanh thì tùy ý ở lại, nếu làm tổn
hại thì phải mau đi nơi khác". Nếu quỷ thần hung hãn
không nghe lời, nên dùng nọc sắt dài 12 ngón tay, tụng chú vào
đó 21 biến rồi đem đóng xuống đất. Làm như thế, các quỷ thần dữ phải
chạy ra khỏi địa giới.
* Nếu có bệnh nhân bị tinh mị dựa vào, kẻ cứu hộ nên nhìn chăm
chú vào mặt người bịnh mà tụng đà ra ni này, tinh mị sẽ xuất ra.
* Nếu có quỷ La Sát hoặc các loài quỷ dữ vào quốc giới gây đau bịnh,
làm khủng bố và não loạn dân chúng, nên xưng
niệm Tam Bảo, ngày đêm tụng trì chú này, kiết ấn Phật
Đảnh Tôn Thắng rải khắp bốn phương, thì các tai
nạn đều tiêu diệt, làm như thế, cũng cứu được chúng sanh thọ
khổ ở tam đồ.
* Nếu muốn thí nước cho loài ngạ quỷ, tụng chú này vào nước sạch
7 biến, rồi rải khắp 4 phương, tâm tưởng miệng nói, cầu cho chúng
được thọ dụng, thì các ngạ quỷ sẽ được uống nước cam lộ.
* Nếu người nào buôn bán ế ẩm, muốn được khách hàng chiếu cố, thường kiết
ấn tụng chú này 21 biến, an trí tượng Phật nơi chỗ
tinh sạch kín đáo mà cúng dường, tất sẽ được như ý.
* Nếu người nào mỗi ngày 3 thời, mỗi thời tụng chú này 21
biến, cung kính cúng dường, chí tâm thọ trì, vì người khác
giải nói, người ấy sẽ được an vui, sống lâu, không bịnh, phát sanh trí
huệ được túc mạng thông, khi lâm chung như ve thoát xác,
liền được sanh về thế giới Cực Lạc, tai không còn nghe tiếng địa
ngục, huống chi bị sa đọa. Kẻ ấy sẽ tuần tự tiến trên đường đạo
quả cho đến khi thành Phật.
Đức Phật bảo vua Diễm La và các vị thiên vương:
- Nếu chúng sanh nào muốn lập đàn trì đà ra ni này, nên dùng đất vàng
trộn với nước thơm mà bôi trên mặt đàn, đàn tràng vuông vức
mỗi bề rộng 4 cánh tay, dùng dây lụa năm sắc bao quanh 3 lớp, tụng
chú vào hạt cải trắng, hoặc nước thơm rải bốn bên. Bốn góc đàn
để bốn bình nước tinh sạch, các bình nước lượng lớn nhỏ đều phải đồng nhau.
Giữa đàn rải các thứ hoa, đốt các thứ hương, thắp các đèn dầu có chất
thơm. Trước tượng Phật, dùng những đồ đựng đẹp sạch, đựng các thức
ăn như cơm trắng, nếp, sữa, đường, hoặc các thứ hoa quả cúng
dường. Hành giả nên mặc y phục sạch, giữ giới bồ
tát, không nên ăn các thứ ăn có sắc đen. Mỗi thời kiết ấn trì
chú này 108 biến, nếu có thể 1.080 biến. Trì tụng như thế sẽ
được tiêu các tội chướng, tăng trưởng phước đức căn lành,
sanh về các cõi Tịnh Độ, và được thọ ký thành Phật.
Muốn kiết ấn Phật Đảnh Tôn Thắng nên chắp hai tay lại, hai
ngón trỏ co vào lòng bàn tay, hai ngón cái áp vào lóng giữa ngón trỏ là ấn
thành.
Khi kiết ấn này tụng chú 108 biến, tức là đã cúng
dường thừa sự 88 cu chi hằng hà sa na do tha trăm ngàn
chư Phật, được chư Phật khen ngợi, xưng là Phật tử.
Nếu người nào mỗi ngày kiết ấn, tụng chú này 108 biến sẽ được 10
phương chư Phật thọ ký, quyết định không còn nghi. Như mỗi
ngày kiết ấn tụng được 1080 biến, kẻ ấy sẽ được thân kim
cang bất hoại, mau thành đạo quả.
Hành giả nào mỗi ngày thường trì chú này, rồi kiết
ấn đối 4 phương, mỗi phương tụng chú một biến, rải một lượt sẽ
được tất cả thiên, long, quỷ thần cung kính ủng hộ, nhan
sắc tươi đẹp, sự cần dùng tùy niệm sẽ được chư thần xui cho
đem đến, phước đức vô lượng, công đức vô biên, chư
Phật ngợi khen, tùy ý sanh về 10 phương Tịnh Độ.
Tóm lại, công lực của Tôn Thắng Đà Ra Ni vô cùng, có
thể tùy nguyện ứng dụng, không thể tả xiết!
Đức Phật bảo thiên đế và đại chúng:
- Môn Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni đây trong thời mạt
pháp nếu có hàng vua quan tứ chúng, y đúng pháp thức lập đàn thọ
trì và cúng dường, đó gọi là tu Bố Thí độ. Khi lập đàn tu
hành, giữ ba nghiệp thanh tịnh, không phiền não giận hờn,
là trì giới độ và nhẫn nhục độ, mỗi ngày trì
niệm không gián đoạn biếng trễ là tinh tấn độ.
Chuyên y theo pháp tắc, một lòng không loạn là thiền định
độ. Bố thí đàn tràng đúng pháp, thông hiểu phép thọ
trì, khéo lượng chừng độ, biết việc nên làm hoặc không nên làm là Bát
Nhã độ.
- Này Thiên Đế và đại chúng! Nếu y theo lời dạy
mà kiến lập pháp sự, tức sẽ đầy đủ 6 pháp ba la mật. Các ông nên
xoay vần khai thị, khiến cho chúng sanh được nhiều lợi
ích, chứng quả bồ đề!
Khi đức
Phật nói pháp môn này xong, thiên đế, Thiện
Trụ và chư thiên lãnh giáo trở về thiên
cung. Thiện Trụ thiên tử y theo lời dạy mà thọ trì mãn
7 ngày, dùng thiên nhãn quán sát, tự thấy tội báo của mình
đều tiêu trừ, phuớc thọ ở cõi trời càng tăng thêm vô lượng.
Ông vui mừng khấp khởi, cả tiếng khen ngợi rằng: "Kỳ diệu thay
Phật Đà! Kỳ diệu thay Đạt Mạ! Kỳ diệu thay Tăng
Già! Kỳ diệu thay sức chú ấn Phật Đảnh Tôn Thắng đà ra
ni, hay trừ diệt tất cả khổ ách, khiến cho tôi thoát khỏi các ác
báo như thế!"
Liền đó ông đến trình bạch lại việc ấy với Thiên Đế, thỉnh ngài
cùng thiên chúng xuống cõi Diêm Phù tạ
ơn Phật. Thiên Đế suất lãnh Thiện Trụ và hàng tùy
thuộc, đem các thứ hương, hoa, phướn, lọng, y phục, và anh
lạc quý đẹp, ngồi xe báu bay xuống vườn Thệ Đa Lâm, đảnh
lễ cúng dường Phật. Hành lễ xong lại chắp tay, đi
nhiễu quanh Như Lai trăm ngàn vòng, rồi đứng qua một bên, dùng các
lời kệ ca ngợi công đức của đức Thế Tôn.
Bấy giờ đức Như Lai đưa cánh tay sắc vàng, xoa đầu Thiện Trụ
thiên tử, dùng tiếng hòa nhã nói những lời pháp yếu và thọ
cho bồ đề ký.
Đức Phật dạy rằng:
"-KINH
NÀY TÊN LÀ: TỊNH NHỨT THIẾT ÁC ĐẠO, PHẬT
ĐẢNH TÔN THẮNG ĐÀ RA NI. CÁC ÔNG NÊN THỌ TRÌ.”
Thất thánh tài: lòng tin, giới
hạnh, sự nghe pháp, hổ với bên ngoài, tự thẹn bên trong, xả bỏ, trí huệ.
Bát nạn:
1.
Địa ngục
2.
Ngạ quỷ
3.
Bàng sanh
4.
Câm ngọng, đui điếc
5.
Sanh trước Phật hay sau Phật (vào thời không có Phật pháp)
6.
Sanh Bắc Cu Lư Châu
7.
Sanh Vô Tưởng thiên
8.
Thế Trí Biện Thông.
PŪTANA (Phú
Đơn Na) dịch xú
ngạ quỷ, thường làm bịnh nóng.
KATAPŪTANA
(Ca Tra Phú Đơn Na) dịch
là Kỳ xú quỉ, thường làm bịnh kêu khóc và gây tai nạn.
Hai loài quỉ này thân
hình rất xấu xa, hôi hám.
KINH
PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG
ĐÀ RA NI
PHẦN LƯU THÔNG
Thiên Đế và đại chúng vui mừng đảnh
lễ, tín thọ phụng hành.
CHUNG
PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG ĐÀ RA NI
Nam-mô ba ga pha tê. Sạt hoa tát răn, lô ky da. Bơ ra di, vi ti sắc tra da.
Bút đà da, ba ga pha tê. Tát đi da tha !
Um ! Bút rum, bút rum,
bút rum. Suýt đà da, Suýt đà da. Vi suýt đà da, vi suýt đà da. Á sá ma, sá ma.
Sa măn tá, phạ hoa sát. Sa phả ra na, ga ti, ga gạ na. Soa phạ hoa, vi suýt đi.
Á vi chuân da, du măn. Sạt hoa tát thá ga đá. Sú ga da. Phạ ra, phạ ca nã. A mi
rị tá, bi sá cu. Ma ha muýt đơ ra, măn đa ra, ba na.
Um ! Á hạ ra, á hạ ra.
A du săn, đà ra ni. Suýt đà đa, suýt đà đa. Ga ga na, xoa phạ hoa, vi suýt đi.
U sắc ni sá, vi ca da, vi suýt đi. Sá hạ sa ra, ra sa mi, săn tô ni tê. Sá ra
hoa, tát thá ga đa. A hoa lô ki ni. Sạt hoa tát thá ga đa, mát tê. Sá tra, bá
ra mi tá. Ba rị, bủ ra ni. Na sá, bủ mi bơ ra, đi sắc si tê. Sá ra hoa, tát thá
ga đa, hất rị đà da. Đi sắc sá na. Đi sắc si tê.
Um ! Muýt đơ ri, muýt
đơ ri, ma ha muýt đơ ri. Hoa di ra, ca da. Săn hạ đa nã, vi suýt đi. Sá ra hoa,
ca ma, phạ ra na, vi suýt đi. Ba ra, đu ri ca ti, bi ri, vi suýt đi. Bơ ra ti
na, hoa ra đá da, a dục suýt đi. Sa ma dã, đi sắc sá na, đi sắc si tê.
Um ! Ma ni, ma ni, mạ
hạ ma ni. Á ma ni, á ma ni. Vĩ ma ni, vĩ ma ni, mạ hạ vĩ ma ni. Mát đi, mát đi,
mạ hạ mát đi. Tát thá đá, bủ đa. Cu thi, vi ri suýt đi. Vĩ sa phổ ra, bút đi,
vi suýt đi.
Um ! Hi hi. Dá ra, dá
ra. Vĩ dá ra, vĩ dá ra. Sa ma ra, sa ma ra. Sa phạ ra, sa phạ ra. Sá ra phạ,
bút đa. Đi sắc sá na. Đi sắc si tê. Suýt đi, suýt đi. Họa di ri, họa di ri, mạ
hạ họa di ri. Á họa di ri. Họa di ra, gạ bi. Dá ra, gạ bi. Vĩ da ra, gạ bi. Họa
di ra, rít họa lã, gạ bi. Họa di rô, na ga tê. Họa di rô, na bà vê. Họa di ra,
sam bà vê. Họa di rô, họa di rị na. Họa di rảm, hoa phạ, đô mạ mạ. Sá rị rảm,
sá ra phạ, sát ta phạ năng. Tả ca da, bi ri, vi suýt đi. Sất da, hoa phạ, đô
mi, sát na. Sá ra phạ, ga ti, bi rị suýt đi. Sá ra phạ, tát thá ga đa, sất da
mi. Sá ma, sa phạ, sát dăn tu. Sạt hoa, tát thá ga đa. Sá ma, sá phạ sa, đi sắc
si tê.
Um ! Sất đi da, sất đi
da. Bút đi da, bút đi da. Vi bút đi da, vi bút đi da. Bồ đà da, bồ đà da. Vi bồ
đà da, vi bồ đà da. Mô ca da, mô ca da. Vi mô ca da, vi mô ca da. Suýt đà da,
suýt đà đa. Vi suýt đà da, vi suýt đà da. Sa măn tá, tát bi ri, mô ca da. Sa
măn đá đa, sa mi, bi ri suýt đi. Sá ra phạ, tát thá ga đá, sam ma da, hất rị đà
da. Đi sắc sá na, đi sắc si tê.
Um ! Muýt đơ ri, muýt
đơ ri, mạ hạ muýt đơ ra. Mạn đà ra, bá na. Đi sắc si tê. Sóa ha .
LIÊN TỤC TRONG VÒNG 7 NGÀY
, ĐỂ TRỪ TẤT CẢ "KHẨU NGHIỆP" ĐỐI VỚI
"CHA MẸ", CHƯ TĂNG...LẠI CŨNG ĐỐNG CỬA TẤT CẢ "ÁC
ĐẠO", MỞ ĐƯỜNG NHƠN, THIÊN, NIẾT BÀN CHO NHỨT THIẾT CHÚNG
SANH.
LÀM ĐƯỢC NHƯ VẬY, THÌ CÓ
THỂ "TRUYỀN BÁ LƯU
THÔNG" BỘ KINH NẦY KHẮP PHÁP GIỚI CHÚNG SANH.
LỜI SAU
CÙNG
Môn Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni, đời Đường có
quan thị ngự sử Võ Triệt thường trì tụng, sau nghe bạn đồng liêu là
Tưởng Hình cũng thọ trì, nhưng văn cú và ngôn âm phần lớn đều
sai khác; hỏi ra quan Thị Ngự Sử Tưởng Hình thọ học với ông Vương Khai Sĩ,
và Vương Khai Sĩ lại được ngài Kim Cang Trí Tam Tạng truyền
pháp. Trong khi truyền thọ ngài bảo:
"- Ở Tây Vức cũng ít có bản này. Ta đem
theo Phạn bản đến đây, nên mật truyền lại cho ông".
Trong niên hiệu Khai Nguyên, có vị cư sĩ tinh tu ở
non Ngũ Đài, người thường gọi là Vương Sơn Nhơn, cũng trì tụng
chú này. Sau vì cầu siêu cho cha, ông tụng chú đến vài mươi muôn
biến, cầu xin được biết nghiệp báo lành dữ và chỗ sanh
của phụ thân. Nhưng kết cuộc không thấy chi, ông thối
tâm muốn ra khỏi núi. Bỗng gặp một lão nhơn đón lại, bảo:
"Hiền giả tụng trì thật là cần mẫn, nhưng
vì cách Phật lâu xa, văn cú thất lạc, thiếu sót nhiều. Nên
không mau được ứng nghiệm. Nay gặp nhau đây, tôi xin truyền lại toàn
bản của thần chú".
Vương Sơn Nhơn mời về đảnh lễ và thọ pháp. Lão
nhơn dạy:
"Hiền giả tụng chú bản này độ một ngàn biến sẽ
thấy hiệu lực!".
Cư sĩ trì niệm y theo lời. Vài hôm sau lúc ban
đêm, bỗng nghe tiếng ngọc hoàn bội khua thanh thao, giọng tiêu cầm
dìu dặt, lần lần giáng xuống trước sân nhà, cư sĩ kinh lạ bước
ra xem, thấy mấy mươi thiên nhơn vây quanh ủng hộ một
vị thiên tiên tướng mạo siêu phàm đi đến. Vị thiên
tiên hỏi:
"-Người biết ta chăng?"
Cư sĩ thưa:
"-Kẻ dung phàm này mới được hân hạnh diện
kiến!".
Thiên tiên nói:
"-Ta là phụ thân của người, năm rồi người trì
tụng Tôn Thắng đà ra ni, ta được nhờ phước lực sanh
lên cõi trời. Mấy hôm nay, y phước lại tăng gấp bội hơn trước, ta được làm
vua trong hàng thiên tiên. Bản chú ngươi vừa trì tụng công
hiệu thật không thể nghĩ bàn!"
Nói xong, tất cả đồng bay về thượng giới, cư
sĩ vui mừng, cúi lạy tiễn đưa. Từ đó về sau càng thêm tinh tấn.
Cũng vào thời đó, tại Đông Đô có ông Vương Thiếu Phủ tụng
chú Tôn Thắng theo bản của ngài Phật Đà Ba Lỵ đã vài muôn
biến, một đêm, ông mộng thấy vị Phạn tăng đi đến bảo: "Nhơn
giả tụng niệm rất tinh thành, nhưng tiếc vì chú văn còn thiếu,
nên công hiệu kém!"
Thiếu Phủ đảnh lễ cầu thỉnh bản chú văn đầy
đủ. Phạm tăng từ bi chấp thuận, khẩu truyền từng
câu chân ngôn. Sau khi đã thông thuộc tất cả, ông bái tạ đưa
vị Phạm tăng ra khỏi cửa, nhìn qua trời sáng như ban ngày. Thiếu Phủ
trở vào nhà thấy tôi tớ còn đang nằm ngủ.
Vừa lúc ông chợt tỉnh giấc, vội gọi kẻ đồng bộc
trách bảo trời đã sáng sao chưa thức dậy?
Chúng đáp rằng mới vừa nửa đêm. Lúc ấy ánh sáng bỗng
tắt, trở lại đêm tối như cũ. Thiếu Phủ nhớ cơn thần mộng, lấy làm lạ,
nhắm mắt tụng thần chú mấy biến thấy vẫn thông suốt. Từ đó,
ông y theo khẩu truyền của vị Phạm tăng mà thọ
trì.
Trong niên hiệu Thiên Bảo năm đầu, Thiếu Phủ đang nằm nơi tư thất, chợt tắt
hơi. Vì nơi ngực còn ấm, người nhà không dám tẫn liệm. Đến 7 hôm sau, ông
bỗng sống lại. Lúc ấy, kẻ háo sự trong thành bảo nhau đến hỏi
về duyên cớ tái sanh. Tiếng đồn lan ra, Vưong Khai
Sĩ và Vương Sơn Nhơn lúc ấy ở Đông Đô không quen
biết nhau, cũng đồng đến thăm viếng. Trước mặt các quan
khách, Vương Thiếu Phủ trần thuật như sau:
“- Tôi vừa nằm nghỉ, chợt hôn mê, thấy có 2 sứ giả đến dẫn đem
đi. Được vài mươi dặm, đến một gốc đại thọ, 2 sứ giả dùng lại
tạm nghỉ, tôi cũng ngồi xuống theo. Bỗng nhớ tới chú Tôn Thắng, tôi liền
nhắm mắt tụng luôn 21 biến. Lúc mở mắt nhìn quanh, không thấy
2 sứ giả đâu cả.
Giây lát, có 4 vị khác đi đến quỳ thưa rằng: "Không biết
ngài tu theo diệu pháp nào, khiến cho 2 sứ giả dẫn độ đều
được sanh lên cõi trời?" Tôi đáp: "Tệ nhơn chỉ tụng Phật
Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni".
Bốn vị ấy cầu thỉnh:
"Xin ngài vì chúng đệ tử tụng trì, cứu vớt cho
khỏi vòng khổ nạn!" Tôi cũng nhắm mắt tụng 21 biến, lúc mở
mắt ra, lại không thấy bốn vị đó.
Khoảnh khắc giữa hư không, có tiếng binh đao, một vị thần mặc
tử bào, mang giáp trụ, quân thị vệ đông đảo, đến trước quỳ thưa rằng:
"Tôi là thần Ngũ Đạo Minh Ty, địa vị tuy tôn quý,
nhưng vẫn còn nhiếp về thần đạo. Sáu vị kia nhờ pháp
lực của ngài, đều được sanh lên cõi trời.
Xin mời ngài hạ cố đến tệ cư trì tụng, khiến cho đệ
tử và chúng sanh nơi đó được nhờ phước ấm, đồng sanh lên thiên
giới".
Theo vị thần, tôi đi đến một khu thành quách to rộng,
chu vi ước độ vài mươi dặm. Trong thành có rất đông tội nhơn, mang
gông xiềng họp lại nơi sân rộng trước cung điện, có lẽ đang chờ khảo
tra xử phạt. Vị thần dạy quân bày tòa cao đẹp, làm lễ thỉnh tôi lên ngồi,
còn chính mình quỳ nơi trước, phía dưới, chắp tay lắng nghe.
Tôi liền định tâm chí thành tụng đủ 49 biến,
khi mở mắt ra nhìn bốn bề không thấy một ai cả, chỉ có gông xiềng đứt
nát nằm ngổn ngang chung quanh. Còn đang kinh ngạc, bỗng có
4 sứ giả đến bảo tôi rằng:
"Đức vua dạy mời ông đi nơi khác, vì ông đã
làm rối loạn, phá hư trật tự chốn minh ty của
chúng tôi". Kế đó họ đưa tôi vào một hang núi, và tôi được hoàn
hồn sống lại.
Sự tái sanh này chắc cũng nhờ oai lực không thể nghĩ
bàn của Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni.”
Vương khai Sĩ và Vương Sơn Nhơn nghe nói, mỗi người đều đọc bản chú
của mình để so sánh với bản chú của Vương Thiếu Phủ thì thấy đồng
nhau như một bản. Cả ba đều vui mừng, cùng nhau khánh hạ. Vương sơn Nhơn
nói:
"Bản của tôi thọ giáo nơi vị thánh công nơi non
Ngũ Đài".
Vương Thiếu Phủ bảo:
"Tôi thọ học bản chú này với vị thần tăng".
Vương Khai Sĩ nói:
"Còn bản của tôi được thọ truyền bởi ngài Kim Cang
Trí Tam Tạng, hiện Phạm văn bối diệp hiện còn lưu trữ".
Ai nấy nghe nói đều kinh ngạc, khen là
chuyện hy hữu.
Ngoài ra lại còn chuyện ông Trương Diệc trì chú Tôn
Thắng cứu được cha mẹ khỏi khổ địa ngục, sanh lên cõi
trời. Chuyện ông Trương Thừa Phước trì chú này khi bị minh
ty đến bắt, đã không thọ khổ mà còn cứu vớt được tội nhơn ở cõi âm được siêu
thoát. Truyện vài vị tăng trì chú Tôn Thắng cảm được xá
lợi hiện và rất nhiều cảnh giới lành.
Những chuyện trên đây có ghi chép trong tập Gia Cú Linh
Nghiệm Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni Ký. Sau tập này có chép bản
văn đầy đủ của chú ấy, gọi là Cụ Túc Bản. Bút giả y theo Cụ
Túc Bản so sánh với phiên âm của các bản khác, và tra
cứu từ điển để dịch ra Việt ngữ cho đúng với Phạm âm.
Riêng bản dịch của Pháp-Thiên Tam-Tạng nhan
đề: Tối-Thắng
Phật-Đảnh Đà-Ra-Ni so với Cụ túc Bản văn
cú đã đồng lại có phần rộng hơn. Sau khi hiệu kiểm, bút giả lại ghi thêm
vào những văn cú mà Cụ-túc-bản không có để được càng đầy
đủ.
Mong rằng việc làm này, đem nhiều lợi
ích cho người trì tụng.
Comments
Post a Comment